Hà Nội 360

Thăng Long tứ trấn - điểm đến đầu xuân

Linh Tâm 17/02/2024 15:24

Mỗi dịp Tết đến xuân về, nhiều người Hà Nội giữ thói quen đi lễ đầu năm tại tứ trấn.

Thăng Long xưa là vùng đất “rồng cuộn hổ ngồi” linh thiêng. Sớm nhìn ra điều này, hơn 1.000 năm trước, các vị vua triều Lý đã xây dựng “Thăng Long tứ trấn” để ghi nhớ công ơn của các vị thần đã giúp bảo vệ bờ cõi và giữ yên bình cho kinh thành Thăng Long xưa. Ngày nay, Thăng Long tứ trấn vẫn là những công trình kiến trúc tiêu biểu, mang giá trị văn hóa - lịch sử độc đáo, đồng thời là điểm di tích tín ngưỡng tôn giáo gắn bó mật thiết với đời sống người dân Thủ đô.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, nhiều người Hà Nội giữ thói quen đi lễ đầu năm tại tứ trấn nhằm cầu mong những điều tốt đẹp, may mắn, hòa bình, thịnh vượng cho gia đình và đất nước.

Đền Bạch Mã - trấn đông

bach-ma.jpg

Nằm trên phố Hàng Buồm (phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm), Bạch Mã là ngôi đền thiêng trấn giữ phía đông kinh thành Thăng Long. Trong tứ trấn, đền Bạch Mã được hình thành sớm nhất, vào năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Đền thờ thần Long Đỗ - vị Thành hoàng của kinh thành Thăng Long, được vua Lý phong là Quảng Lợi Bạch Mã tối linh thượng đẳng thần.

Đền Bạch Mã có quy mô lớn (chiều sâu 37,33m, rộng 15,96m). Các công trình kiến trúc được sắp xếp nằm trên một trục chính gồm: Nghi môn, phương đình, đại bái, thiêu hương, hậu cung và nhà hội đồng. Mặc dù đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhưng đến nay đền vẫn giữ được phong cách kiến trúc tiêu biểu của thế kỷ XIX cùng những mảng chạm mang phong cách dân gian. Nối phương đình với tòa đại bái và nhà thiêu hương là những mái vòm có kiến trúc hình vỏ cua được trang trí hoa văn độc đáo. Cuối cùng là cung cấm, nơi đặt khám và tượng thờ thần Long Đỗ có niên đại thời Nguyễn.

Đền Bạch Mã hiện còn lưu giữ nhiều di vật có giá trị, tiêu biểu là 15 bia đá ghi sự tích đền và vị thần được thờ cùng các nghi lễ và những lần trùng tu tôn tạo. Bên cạnh đó là các loại vũ khí thời cổ, lư hương đồng, đỉnh đồng, các pho tượng thể hiện quan niệm “tam giáo đồng nguyên”, các đạo sắc phong thần có niên đại trải dài từ thời Lê đến triều Nguyễn hay những câu thơ của thái sư Trần Quang Khải ca ngợi đền Bạch Mã.

Lễ hội đền Bạch Mã được tổ chức vào ngày 12 và 13 tháng Hai hằng năm, với nhiều phong tục độc đáo. Một phong tục cổ ít người còn nhớ tới là tục “đả xuân ngưu” (đánh trâu rước xuân) thể hiện sự gắn bó giữa con trâu với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Tục này kéo dài từ thời Lý đến thời Lê nhưng đến nay chỉ còn lưu lại trong sử sách.

Đền Voi Phục - trấn tây

den-voi-phuc.jpg

Trấn giữ phía tây là đền Voi Phục (hay đền Thủ Lệ, đền Trại). Thời Lý, Thủ Lệ thuộc vùng “thập tam trại” của kinh thành Thăng Long. Ngày nay, đền Voi Phục thuộc địa bàn phường Ngọc Khánh (quận Ba Đình). Đền thờ Linh Lang Đại vương - hoàng tử thứ 4 của vua Lý Thánh Tông (1054 - 1072) có công đánh giặc Tống xâm lược vào thế kỷ XI, với trận chiến nổi tiếng trên sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu, tỉnh Bắc Ninh). Sau đó, ngài trở về sống tại Thị Trại (Thủ Lệ ngày nay) và hóa tại đây. Tương truyền, trước khi hóa, ngài gối đầu lên phiến đá thiêng, để lại một vết lõm. Phiến đá này hiện được đặt trong cung cấm của đền. Sau khi ngài hóa, nhà vua sắc phong là “Thượng đẳng Phúc thần”. Đến thời Trần, ngài hiển linh giúp đánh tan hai cuộc xâm lược của giặc Nguyên - Mông. Đến thời Lê Trung hưng, ngài lại hiển linh giúp vua Lê dẹp quân nội phản và được sắc phong mỹ tự: “Phối đổng thiên địa, Vạn cổ lưu truyền”.

Đền Voi Phục được dựng trên một gò cao, ở thế đất rồng uốn lượn chầu về Tổ. Hai bên tả, hữu có tinh phong dẫn mạch, nhị thủy án tiền. Các công trình kiến trúc gồm: Nghi môn ngoại, tam quan, tiền tế, thiêu hương, hậu cung, nhà tả - hữu mạc, miếu thần, điện Mẫu, điện Sơn trang... Qua cổng là đền chính. Đền quay về hướng đông nam, trông ra hồ Thủ Lệ. Dù trải qua nhiều biến động lịch sử, đền Voi Phục hiện còn lưu giữ nhiều di vật quý gồm: 3 bức cuốn thư bằng gỗ chạm rồng niên hiệu Thành Thái, 2 hoành phi câu đối thếp vàng, 1 cỗ long ngai bài vị thếp vàng thế kỷ XIX...

Lễ hội đền Voi Phục được tổ chức từ ngày 9 - 11 tháng Hai hằng năm nhằm tưởng nhớ công lao của Linh Lang Đại vương, với sự tham gia của 13 làng trại. Ngày 10 tháng Hai rước kiệu từ Thụy Khuê về Thủ Lệ, ngày 11 rước kiệu từ Thủ Lệ về Hào Nam. Mỗi lần diễn ra lễ hội, cả vùng tây trấn Thăng Long lại tưng bừng với đoàn rước dài hàng cây số. Trải qua nhiều thế kỷ, đền Voi Phục vẫn luôn là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của cộng đồng dân cư ở phía tây của Thăng Long xưa - Hà Nội nay.

Đền Kim Liên - trấn nam

kim-lien.jpg

Đền - đình Kim Liên là trấn nam của Thăng Long xưa, nay nằm tại địa chỉ số 148 phố Kim Hoa (phường Phương Liên, quận Đống Đa). Đền là nơi thờ Cao Sơn Đại vương - vị thần được thờ ở nhiều nơi trên địa bàn cư trú của người Việt cổ. Tương truyền, ngài là một trong 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi, cùng Sơn Tinh đánh Thủy Tinh, mang lại cuộc sống bình yên cho muôn dân. Đến triều Lê, đức thánh đã phù trợ vua Lê Tương Dực (1495 - 1516) dẹp các ngoại thích phản loạn. Năm 1509, nhà vua cho dựng đền thờ và soạn văn bia lưu truyền công ơn của ngài.

Đền Kim Liên được xây trên một gò đất cao. Cổng chính đồ sộ với 4 cột đồng trụ, hai bên là hai cổng phụ 2 tầng 8 mái. Sau cổng là sân gạch rộng, hai bên là 2 nhà dải vũ. Nằm trên đỉnh gò là nghi môn và khu đền chính. Nghi môn gồm 3 gian, xây kiểu tường hồi bít đốc. Đền chính có kết cấu kiểu chữ “Đinh”, gồm bái đường và hậu cung. Ở gian ngoài của hậu cung đặt hương án sơn son thếp vàng. Gian thứ hai đặt hai bộ long ngai, đồ tế khí và bài vị của thần Cao Sơn cùng hai vị nữ thần phối hưởng là Thủy Tinh đệ tam Tôn nữ Đông Hổ Trưng Vương Mẫu và Huệ Minh phu nhân. Trong đền hiện còn lưu giữ nhiều di vật quý như: Long ngai của Cao Sơn Đại vương, 2 tấm bia đá, trong đó có bia “Cao Sơn Đại vương thần từ bi minh” được soạn năm 1510, nội dung ca ngợi công lao của thần Cao Sơn. Ngoài ra còn có 39 đạo sắc phong từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn...

Đền Quán Thánh - trấn bắc

quan-thanh.jpg

Đền Quán Thánh (hay Chân Vũ quán, Trấn Vũ quán) là một ngôi đền thiêng trấn giữ phía bắc kinh thành Thăng Long. Đền nằm tại góc phố giao giữa đường Quán Thánh với đường Thanh Niên (quận Ba Đình). Sở dĩ đền còn được gọi là “quán” bởi đây là một trung tâm hành lễ của Đạo giáo và là nơi thờ thần Huyền Thiên Trấn Vũ của đạo Lão. Việc thờ một vị thần đạo Lão cùng với đạo Phật và Nho giáo cho thấy tinh thần hòa hợp “Tam giáo đồng nguyên” của người Việt.

Mặc dù đã bị thu hẹp so với trước nhưng đền Quán Thánh vẫn là một kiến trúc bề thế gồm tam quan, tiền tế, trung tế, hậu cung. Đền được xây dựng theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc” thường thấy ở các tòa lâu đài cổ. Theo trục thần đạo, các kiến trúc của đền được sắp xếp theo thứ tự gồm: Nghi môn ngoại, nghi môn nội - nơi treo 2 quả chuông đời Lê Hy Tông (1677) và Quang Tự nhà Thanh (1888), tòa đại bái và hậu cung. Hai bên tả hữu tòa đại bái có treo biển đồng đề “Chân Vũ quán” do vua Thiệu Trị ngự đề và chiếc khánh đồng đúc vào thời Tây Sơn. Chính giữa hậu cung đặt pho tượng Huyền Thiên Trấn Vũ do người dân làng Ngũ Xã đúc năm Đinh Tỵ (1677). Đây là một tác phẩm có giá trị độc đáo, được đúc liền khối bằng đồng, nặng 4 tấn, cao 3,96m. Năm 2016, tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được đưa vào danh mục Bảo vật quốc gia.

Trong đền Quán Thánh hiện còn lưu giữ khá nhiều hiện vật cổ, gồm hệ thống hoành phi câu đối, đại tự, cuốn thư được sơn son thếp vàng lộng lẫy cùng nhiều mảng chạm tinh xảo; đặc biệt là chiếc khánh đồng kích thước lớn có niên đại thời Tây Sơn, chiếc đèn đồng cổ, bức phù điêu bằng đồng được chạm khắc tỉ mỉ, miêu tả cảnh Tam giới (thiên - địa - thủy).

Có thể nói, Thăng Long tứ trấn là những công trình tín ngưỡng tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt trong dòng chảy lịch sử của Thăng Long - Hà Nội. Sự hiện diện của tứ trấn ở kinh đô Thăng Long thể hiện sự tôn vinh các vị thần bảo hộ kinh thành và là một hiện tượng văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo độc đáo chỉ thấy ở Thăng Long - Hà Nội, đồng thời thể hiện quan niệm về mối tương quan giữa thế giới tâm linh với đời sống. Năm 2022, cả 4 di tích này đều được Nhà nước xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt.

Linh Tâm