Hà Nội 360

Hà Nội - nơi tôi trở về...

Saadi Salama 09/10/2024 19:32

Tôi tới Hà Nội vào một buổi trưa muộn tháng 10-1980. Năm ấy, cầu Thăng Long vẫn đang xây. Phải mất hơn 2 tiếng để di chuyển từ sân bay Nội Bài về đến trung tâm thành phố.

Chiếc com-măng-ca do Đại học Tổng hợp cử đến đón tôi đi chầm chậm qua những con phố rất nhiều cây xanh của Hà Nội. Những ngôi nhà cao nhất cũng không quá 5 tầng. Người đi đường hầu hết đều cuốc bộ, xen lẫn một vài chiếc xe đạp. Họ ăn mặc giản dị, đi khá thong thả, không có chút gì hối hả trên vẻ mặt cũng như bước đi. Ấn tượng đầu tiên của tôi về Hà Nội là sự thanh bình và tĩnh lặng.

dai-su-palestin.jpeg
Ở Việt Nam hơn 20 năm, Đại sứ Saadi Salama coi đây như quê hương thứ hai của ông. Ảnh: NVCC

Tôi theo học Đại học Tổng hợp Hà Nội, nhưng thời điểm ấy toàn bộ sinh viên quốc tế được bố trí học và sinh hoạt tại tòa nhà B7 thuộc Đại học Bách Khoa, nơi gần trung tâm hơn so với các trường đại học khác.

Đêm đầu tiên tại Việt Nam, tôi thức dậy vài lần bởi tiếng còi tàu hỏa trong thành phố. Buổi sáng, tôi tỉnh hẳn khi nghe tiếng nhạc bất ngờ phát ra từ chiếc loa gắn ở góc phòng. Đó là bản nhạc của đài phát thanh, kèm theo một giọng nữ với âm điệu rất nhẹ nhàng và dễ nghe. Khi đó tôi chưa học tiếng Việt nên không thể hiểu thông điệp ấy. Sau này, tôi mới biết, đó là một câu nói vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam trong những năm 1980: “Đây là Tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. Chỉ đơn giản như vậy, nhưng lời chào ấy luôn trở đi trở lại trong trí nhớ của tôi, với sự êm dịu thuần khiết khi nghĩ về những ngày đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này.

Đều đặn, mỗi sáng chủ nhật sau đó, khi đã dần quen với cuộc sống ở Việt Nam, tôi vẫn thường đi bộ từ Bách Khoa ra khu phố cổ và hồ Gươm. Ăn phở, dạo bước quanh mặt hồ, ngắm nghía những nếp nhà và mái ngói lô xô, ngẩng đầu đọc tên những con phố nhỏ.

Những điều nhỏ nhặt như thế là đủ để tôi phải lòng Hà Nội rồi. Đến giờ, hơn bốn mươi năm đã qua, tôi vẫn luôn nhớ về một Hà Nội trong trẻo và thanh bình của những ngày ấy.

Dù cuộc sống hiện đại có tạo ra đôi chút xô bồ ở thành phố này, tình yêu Hà Nội của tôi cũng không vì thế mà thay đổi. Bước chân của một nhà ngoại giao sau này đưa tôi tới rất nhiều thành phố trên thế giới, nhưng tôi vẫn không thấy một nơi nào giống Hà Nội cả về kiến trúc và thiên nhiên. Hà Nội rất khác và với tôi là đẹp hơn nhiều so với những thành phố lớn của Đông Nam Á. Ở Hà Nội, ẩn sau sắc thái của một thành phố ngàn năm tuổi là một lớp trầm tích văn hóa độc đáo, phong phú và rất khó để tìm hiểu hết chỉ trong một vài ngày. Người dân Hà Nội xứng đáng được tự hào về nơi mình đang sống.

Những năm xa Hà Nội sau này do yêu cầu công tác, tôi không chỉ nhớ về cảnh vật, về nhịp sống, về những con người mình đã gặp trong thời sinh viên. Hai chữ Hà Nội còn mở ra dòng ký ức bất tận của tôi về những hình ảnh đã từng khắc sâu vào tâm trí ngay từ khi còn là một cậu bé tại Palestine.

Tôi vẫn nhớ mãi những thước phim ghi lại cảnh đoàn quân Việt Nam tiến về tiếp quản Thủ đô vào tháng 10-1954. Đón họ là những cô gái Hà Nội tha thướt với tà áo dài và bó hoa trên tay, là những chàng thanh niên vừa kéo đàn accordion vừa nở nụ cười rạng rỡ. Tôi nhớ hình ảnh ấy như một biểu tượng đặc biệt về sự nền nã, duyên dáng và thanh lịch của Hà Nội. Để rồi, tới năm 1989, khi tôi trở lại công tác tại Việt Nam trên cương vị Phó Đại sứ và tìm cách bắt nhịp lại với cuộc sống nơi đây, tôi gặp một Hà Nội khác, vẫn duyên dáng nhưng lại vô cùng năng động và nhạy bén khi bước vào kinh tế thị trường. Xe máy và ô tô xuất hiện tấp nập cùng những tuyến đường kết nối. Những căn nhà cao tầng, những biệt thự ngoại thành nối nhau mọc lên. Các mặt hàng kinh doanh cũng ngày một đa dạng hơn với những tấm biển quảng cáo đủ màu sắc xuất hiện dày đặc.

Mỗi ngày, tôi lại gặp một nét mới của Hà Nội và theo dõi những thay đổi ấy với tất cả sự hào hứng cũng như niềm tự hào của một công dân Palestine đã gắn bó với thành phố này. Chỉ một chút luyến tiếc trong tôi khi cố gắng kiếm tìm sự thanh bình tuyệt vời trên những đường phố vắng và sự điềm đạm, khoan thai mà tôi từng bắt gặp ở người dân bất cứ đâu trên mỗi vỉa hè.

Tôi bắt đầu cương vị Đại sứ Palestine tại Việt Nam vào năm 2009, đúng thời điểm Hà Nội gấp rút chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long. Trên thế giới không có nhiều thủ đô 1.000 năm tuổi. Riêng ở Đông Nam Á, chỉ duy nhất Hà Nội là thành phố chạm tới cột mốc này. Bản thân con số ấy đã cho thấy bề dày văn hóa, lịch sử của Việt Nam với Thăng Long - Hà Nội là lăng kính hội tụ. Ở đó, người ta không chỉ tìm thấy những câu chuyện về truyền thống, phong tục, nếp sống... của người dân nơi đây trong suốt một thiên niên kỷ. Hơn thế, Thủ đô của Việt Nam cũng là nơi gánh những sứ mệnh lớn lao mà lịch sử luôn trao cho một kinh đô.

So với quá khứ, Hà Nội hiện là một thành phố năng động, có tốc độ phát triển cao và quy mô lớn hơn trước rất nhiều cả về diện tích và dân số. Hà Nội của thế kỷ XXI là một Hà Nội đa sắc màu, muôn hình muôn vẻ. Đây là Thủ đô và cũng là trung tâm kinh tế phía Bắc của một Việt Nam đang liên tục đạt được những thành công trên lộ trình phát triển kinh tế và khẳng định vị thế quốc gia.

Tôi nằm trong số 1,5 triệu người dân sống tại Hà Nội đầu thập niên 1980 và may mắn chứng kiến những đổi thay của thành phố này ở mọi bước ngoặt quan trọng nhất trong suốt 4 thập kỷ qua. Bởi thế, tôi luôn nhìn thành phố với hai cảm xúc, niềm vui về sự đổi mới của một Hà Nội hiện đại và chút luyến tiếc, hoài niệm khi những đường nét cũ đang dần mất đi. Sự tiếc nuối ấy phải chăng cũng là tâm lý chung của những người từng gắn bó với Hà Nội và ở cùng độ tuổi như tôi? Dù hoài niệm hay luyến tiếc, một thành phố vẫn phải phát triển theo quy luật của nó để khoác lên mình những lớp áo mới.

Hạnh phúc của mỗi con người thay đổi khi tuổi tác của chúng ta đổi thay. Khi còn trẻ, chúng ta khao khát thành đạt và sự nghiệp. Ở tuổi tôi, khi sự nghiệp đã ở vào thời điểm chín muồi, hạnh phúc là một cái gì đó rất bình dị. Hạnh phúc là tôi được sống và trải nghiệm những điều nhỏ bé hằng ngày ở Hà Nội, thành phố gắn liền với những kỷ niệm tuổi trẻ mà tôi lưu giữ mãi. Tôi thích ghé những quán bình dân, ngồi vỉa hè thưởng thức một bát bún. Khi có bạn bè nước ngoài lần đầu tới thăm Hà Nội, tôi thường đưa họ tới quán chả cá ở phố Trần Hưng Đạo, hướng dẫn họ cách ăn mắm tôm với chả cá nướng trên bếp nóng và kể cho họ nghe về lịch sử của Hà Nội dựa theo những tấm ảnh trên tường. Nhà tôi nằm ở trung tâm Thủ đô nên nếu không có công việc quan trọng vào buổi tối, tôi thường mặc đồ thể thao và đi 3 vòng quanh hồ Gươm. Đó không chỉ là hoạt động thể dục mà là cách để tôi chiêm nghiệm về bản thân mình, về cuộc sống.

Tổng cộng số năm tôi sống và làm việc ở Việt Nam là hơn 20 năm, còn nhiều hơn số năm tôi ở Palestine. “Việt Nam là quê hương thứ hai của tôi” không phải là một câu nói xã giao, mà đó chính là cảm giác của tôi. Tôi ứng xử, làm việc, suy nghĩ và giao lưu như một người bản xứ, một người Hà Nội. Với tôi, Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung không phải là nơi để đến, mà là nơi để trở về.

Saadi Salama
Đại sứ Palestine, Trưởng Đoàn Ngoại giao tại Việt Nam

Saadi Salama