Xưa và nay

Thú chơi chữ trên tranh Đông Hồ

Phùng Hồng Kổn {Ngày xuất bản}

Tranh dân gian Đông Hồ khá quen thuộc với người Việt. Tuy nhiên, không phải ai xem tranh Đông Hồ cũng hiểu được những ý tưởng sâu sắc, thú vị mà các nghệ nhân xưa gửi gắm. Bài viết này xin chia sẻ về thú chơi chữ - một nét độc đáo của tranh Đông Hồ.

Thời xưa, làm tranh là nghề của cả làng Đông Hồ (phường Song Hồ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), từ thợ cày, thợ cấy đến các cụ già, cháu bé... cũng biết làm tranh. Nhưng đa phần họ làm những công đoạn như giã điệp, quét điệp, in tranh, hay nhặt nhạnh, phơi phóng... chứ không phải ai cũng có thể sáng tác tranh (ngày xưa gọi là “ra mẫu tranh”).

Ở Đông Hồ, nghệ nhân sáng tác thường là các nhà nho, am hiểu văn hóa, lịch sử, xã hội, lại có tài quan sát, khiếu thẩm mỹ... Vì thế mà tranh Đông Hồ có nội dung phong phú, không chỉ thể hiện cảnh sinh hoạt ở nông thôn, mà còn có nhiều tranh về lịch sử, tôn giáo, mang tính triết lý sâu sắc. Đặc biệt trên tranh Đông Hồ thường có chữ Hán, chữ Nôm, sau này có cả chữ quốc ngữ.

ga.jpg
Ảnh 1

Có nhiều kiểu chơi chữ trên tranh Đông Hồ. Kiểu đơn giản nhất là viết một câu mô tả nội dung tranh, giống như một đôi câu đối (xưa tranh do các nghệ nhân sáng tác thường có đôi, xuất phát từ triết lý âm - dương). Nghệ nhân Phùng Đình Năng (1912 - 1993) sáng tác các mẫu tranh có chữ quốc ngữ như “Trưng Vương khởi nghĩa - Triệu Ẩu xuất quân”; “Ngô Vương Quyền đánh giặc Hán - Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên”; “Đinh Tiên Hoàng cờ lau tập trận - Đổng Thiên Vương đại phá giặc Ân”... Nghệ nhân Nguyễn Thể Lãm (1910 - 1978) sáng tác các mẫu tranh: “Bảo vệ hòa bình - Kiến thiết quốc gia”; “Vang lừng tiếng hát tiếng hò, Việt Nam độc lập Bác Hồ muôn năm - Cùng nhau hát múa mấy bài, khải hoàn ngợi khúc xây đài vinh quang”...

ga1.jpg
Ảnh 1

Một kiểu chơi chữ khác là dùng tục ngữ, thành ngữ. Nhiều người cao tuổi ở làng Đông Hồ kể lại, khoảng năm 1915, nghệ nhân Nguyễn Thể Thức (1882 - 1943) đã sáng tác tranh “Gà thư hùng” để mừng đám cưới, trên tranh vẽ một “gia đình” gà. Gà trống được đặt trong một hình thang, đáy lớn nằm trên - thể hiện tư thế chủ gia đình, che chở gà mái và đàn con; gà mái có bố cục theo đường xoắn ốc - thể hiện sự nũng nịu. Bức tranh gợi không khí gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Tranh vẽ đã hay, nhưng chữ trên tranh còn hay hơn. Một bên có dòng chữ Nôm: “Lắm con nhiều cháu, đủ cánh đủ lông”, bên kia là “No vợ đủ chồng, có đầu có mỏ”. Tục ngữ có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, cha mẹ thế nào thì con cái thế ấy. Quà mừng đám cưới như vậy quả là “độc nhất vô nhị”. (Ảnh 1)

Nghệ nhân Vương Chí Long, tức cụ đồ Long (1887 - 1944) sáng tác đôi tranh “Văn minh tiến bộ, toa tăng xương - Phong tục cải lương, moa tăng phú”. Cụ Đồ Long dạy chữ Nho nhưng biết cả tiếng Pháp. Cách chơi chữ cực kỳ độc đáo: “Toa tăng xương” là phát âm bồi của “Toi attention” (anh hãy cẩn thận), ý nghĩa cả câu là “Thời đại văn minh tiến bộ anh hãy cẩn thận”. “Moa tăng phú” (“Moi t’en fous” - tôi không quan tâm), ý là “Phong tục cải lương tôi cóc cần”. Tiếng Tây bồi viết bằng chữ Nôm, đối nhau thật hóm hỉnh! (Ảnh 2).

tem.jpg
Ảnh 2
tem1.jpg
Ảnh 2

Nghệ nhân Vương Chí Long còn sáng tác đôi tranh “Cóc Tây múa kỳ lân - Chuột Tàu rước rồng vàng”, in nét một ván và tô màu phẩm. Những chuột, cóc mỗi con một vẻ với các tư thế rất sinh động, ngộ nghĩnh. Người xem tranh cảm nhận được không khí lễ hội tưng bừng, náo nhiệt. Ở mỗi góc tranh có lá cờ Tây, cờ Tàu (thời kỳ Quốc dân Đảng cầm quyền ở Trung Quốc) và thêm dòng chữ “Cóc Tây”, “Chuột Tàu”. Theo tác giả Maurice Durand mô tả trong cuốn “Imagerie populaire Vietnamienne” (“Tranh dân gian Việt Nam”): Thời kỳ thực dân Pháp mới đô hộ Việt Nam, ở các thành thị có một lớp người đi ở cho Pháp (tiếng Pháp gọi là “cocher”: Người giúp việc nhà, người đánh xe ngựa). Khi đó đàn ông Việt Nam phần lớn vẫn để tóc dài, búi tó; những người đi ở cho chủ Pháp do ảnh hưởng của chủ nên cắt tóc ngắn. Nhiều người dựa dẫm thế của chủ mà có hành vi coi thường những người đi ở khác. Hình ảnh của họ được gán với kẻ hay gây gổ, ồn ào, lười biếng... Dịp Trung thu họ thường tập trung múa lân, múa sư tử trên phố làm huyên náo phố phường. Tác giả gọi lớp người này là “cóc Tây”. Còn “chuột Tàu” thì sao? Thời kỳ này người Hoa kiều ở Hà Nội khá đông. Vào dịp Trung thu họ thường rước một con rồng to làm bằng giấy bồi và vải, nhảy nhót cho rồng uốn khúc. Nét hài hước ở đây là những cái đuôi chuột rất dài - ám chỉ chiếc đuôi sam của người Hoa thời bấy giờ. (Ảnh 3)

coc.jpg
Ảnh 3
chuot.jpg
Ảnh 3

“Hứng dừa - Đánh ghen” là đôi tranh thuộc dạng “kinh điển” của dòng tranh Đông Hồ (nhưng chưa rõ tác giả). Bên “Hứng dừa” có hàng chữ Nôm: “Khen ai khéo dựng nên dừa/ Đấy trèo, đây hứng cho vừa một đôi”. Bên “Đánh ghen”: “Thôi thôi vuốt giận làm lành/ Chi điều sinh sự nhục mình, nhục ta”. Đôi tranh này thì đã quá phổ biến. Nhưng làng Đông Hồ còn đôi tranh “Hứng dừa - Đánh ghen” nữa cũng độc đáo. Tranh “Hứng dừa”, hai chàng trai cùng trèo khiến cây dừa nghiêng xuống, hai cô gái mặc yếm, nâng váy lên nom rất phóng túng. Trên góc tranh có dòng chữ “Trong như ngọc, trắng như ngà”(?!). Bên tranh “Đánh ghen” ông chồng hơi già nhưng vẫn phong độ, gương mặt đầy thách thức chứ không có vẻ ăn năn, xin vợ cả “vuốt giận” như ở tranh “Đánh ghen” kia. Trên tranh có dòng chữ “Nhân lão như tâm bất lão” (người già nhưng lòng không già). Chữ Hán đối chữ Nôm, rất thú vị.

dua.jpg
“Hứng dừa - Đánh ghen” - đôi tranh thuộc dạng kinh điển của dòng tranh Đông Hồ.

Ở đôi tranh “Gà dạ xướng”, một bên vẽ chú gà trống đứng co một chân (kim kê độc lập - tư thế gà đại cát), mào, cánh, đuôi, lông được cách điệu rất đẹp, trên tranh có chữ “Dạ xướng ngũ canh hòa” (Đêm gáy năm canh đều đặn). Vế kia vẽ chú gà đó quay ngược lại và có dòng chữ “Nhật minh tam tác thụy” (Ngày mang tới ba điều lành). Tác giả dùng lối chơi chữ “đồng âm khác nghĩa”: “Minh” nghĩa là sáng sớm (bình minh: rạng sáng), song “minh” cũng có nghĩa là gáy (“kê minh”: gà gáy). Cách trình bày chữ đối xứng cũng là một kiểu chơi chữ độc đáo. Bình thường thì chữ Nho đọc từ phải qua trái và câu “Dạ xướng ngũ canh hòa” đọc như thế, nhưng câu “Nhật minh tam tác thụy” lại phải đọc từ trái qua phải, nếu đọc từ phải qua trái sẽ thành “Tam tác thụy nhật minh” thì không còn là đôi câu đối nữa.

Tranh “Cưỡi trâu thả diều” vẽ chú bé nằm trên lưng trâu thả diều có dòng chữ: “Vũ thu phong nhất tướng” (một hình ảnh gió thu múa). Tranh “Cưỡi trâu thổi sáo” vẽ chú bé cưỡi trâu thổi sáo, trên đầu có chiếc lá sen che nắng đề dòng chữ “Hà diệp cái thanh thanh” (lọng lá sen xanh xanh). Nét độc đáo ở đây là con trâu nghển cổ thưởng thức tiếng sáo và dáng vẻ của nó khiến người xem như cũng nghe thấy tiếng sáo réo rắt, thấy bầu trời trong xanh, cuộc sống thanh bình. Dường như câu “đàn gảy tai trâu” không đúng với trường hợp này! Cách sắp đặt chữ cũng đối xứng nhau như đôi tranh “Gà dạ xướng” và cách đọc cũng như thế.

Trên đây là vài ví dụ về thú chơi chữ của các nghệ nhân Đông Hồ. Đáng lưu ý là hiện nay, các cửa hàng bán tranh Đông Hồ (trực tiếp hoặc online, ở Hà Nội hay ở chính làng Đông Hồ) hầu hết đều tách đôi tranh ra bán từng tranh một. Nếu người mua hiểu biết về triết lý âm - dương thì nên mua cả đôi, đồng thời yêu cầu người bán giải thích ý nghĩa của đôi tranh.

Phùng Hồng Kổn