Hoa bằng lăng tím
Một đêm trăng mùa hạ, má đã kể cho Út Nhỏ nghe chuyện thời chiến tranh và vì sao má yêu màu hoa bằng lăng đến vậy.
Năm đó má mười sáu tuổi. Đất nước đang chiến tranh nên cuộc sống còn khốn khó lắm. “Đất Năm Trại ra đến đồn Trường Lưu này ngày quốc gia, đêm cộng sản, con gái con đứa không được ra đường khi trời tối, gặp nhiều nguy hiểm”. Mười sáu tuổi má nào có biết gì, người lớn bảo sao nghe vậy. Ngày ngày má cũng đi từ Trường Đức vào Năm Trại trỉa đậu, cắt lúa, giãy cỏ..., chiều sụp nắng thì trở về cùng các dì, các cô trong xóm.
Má tuy nhỏ nhưng làm việc gì cũng nhanh, giãy cỏ thì đi hàng ngang nhưng chỉ sau mươi phút má đã lên đầu liếp, rồi quay lại “rước” những người lớn tuổi vì tay họ cầm cây cuốc đã chậm đi. Má cứ làm việc của sức gái mới lớn, nhanh nhẹn và khỏe khoắn. Ai ngờ đã được các chú, các anh ở Năm Trại chú ý. Một hôm lúc má đang cùng nhóm chị em giãy cỏ thì có hai chú từ mé suối đi lên nhờ má mua giúp ít thuốc rê vì các chú ở trong này chăn vịt, mà đêm thì lạnh quá. Má nhanh nhảu: “Mua thuốc rê thì dễ ợt nhưng mai cháu mới đem vô cho mấy chú nhen”.
Má không ngờ con đường theo cách mạng của mình bắt đầu từ đó.
Chỉ là mua ít đồ dùng, trả lời giùm các chú xem ban đêm ở xóm có yên tĩnh không, bà con có ngủ yên giấc không, có tiếng bom rơi, đạn nổ nào không. Lúc ấy má đâu có biết các chú là Việt Cộng, chỉ nghĩ là các chú chăn vịt, ở xa đến không có điều kiện ra chợ, “đi thì bỏ đàn vịt ai trông” như lời các chú nói, thì má mua giùm thôi. Chỉ là vài món nhu yếu phẩm như gói thuốc rê, vỉ thuốc giảm đau, bịch bông gòn, chai cồn thôi mà.
Vậy mà có lần đi qua đồn Trường Lưu thì bị lính xét và giữ lại, hỏi lý do trong giỏ có những vật này. Má nhanh trí đưa cái chân đứt ra, rằng nhà nghèo, đi giãy cỏ bị cuốc trúng chân mà vẫn phải đi làm và đem theo bông băng, thuốc giảm đau. “Còn rê thuốc này?”. “Dạ thì lỡ... chân có chảy máu trở lại thì dùng thuốc rê cầm máu ạ”. Có lẽ thấy cô gái bé nhỏ, nhanh miệng với cái chân đứt thật sâu nên họ cho má đi, nhưng tất cả vật dụng đều giữ lại. Nếu cái chân không đứt thật, có lẽ má đã bị bắt rồi.
Năm 17 tuổi má thưa với ngoại: “Con xin được theo cách mạng bởi đời ai cũng một lần chết. Con không muốn một cái chết uổng phí tuổi thanh xuân. Thôi má cứ cho con theo các anh các chú, làm được gì thì làm nhen má”. Ngoại khóc hết nước mắt vì chồng vừa chết vì bom đạn, con trai “vào R” ba năm nay không có tin tức, giờ đứa con gái duy nhất lại đòi dấn thân theo cách mạng. Nhưng ngoại không ngăn cản, “con cứ tham gia với các anh, các chú, rồi tối về nhà ngủ cho làng xóm khỏi xì xào”.
Mà việc các chú nhờ cũng dễ lắm, nay đến chú Sáu thưa lại việc chú Ba muốn hỏi. Rồi mai qua chú Bảy nhận lời chú nhắn về thưa lại với chú Năm... Và trả lời các câu hỏi kiểu như: “Sáng nay trên đường từ nhà vô Năm Trại, cháu có thấy gì lạ không?”.
Má đã làm công việc giao liên như thế suốt 2 năm và mối tình đầu cũng nảy sinh từ đây. Chỉ có điều là người ấy hơn má 8 tuổi và má luôn gọi bằng “chú”.
***
Ngày đó, Năm Trại là cụm rừng “da beo” chứ không phải liền lạc cả khu rừng hàng chục héc ta như bây giờ. Sở dĩ gọi là “Năm Trại” vì trong mỗi cụm rừng bên ta cất một lán trại để các đoàn cán bộ, chiến sĩ từ miền Tây vượt sông Vàm Cỏ Đông về đây nghỉ ngơi một đêm lấy sức để hôm sau lại về căn cứ Trung ương cục. Toàn cụm rừng này có đến năm lán trại như vậy nên người dân gọi là “Năm Trại”.
Điều đặc biệt là chỉ người dân mới dám đi vào vùng Năm Trại mà làm lúa, trỉa đậu. Bởi để vào được đây phải lội qua trảng Ông Tên. Trảng này là đất sình lầy, quanh năm ngập nước, người không rành về địa hình dễ bị lún đến chết. Lính đồn Trường Lưu biết trong Năm Trại có Việt Cộng nhưng không dám mạo hiểm vì không rành địa hình lòng trảng, hơn nữa chúng sợ trúng mìn quân ta cài đặt khắp nơi.
Hôm ấy má đi làm thật sớm, tầm khoảng 5h sáng, trên vai là cây cuốc cùng chiếc giỏ bàng nhỏ đựng gói cơm. Sau lưng má ríu rít tiếng cười nói của đàn ông đàn bà trong những bộ quần áo bà ba bạc phếch. Người vác cuốc, người vác phảng, vác bắp cày đi cùng chiều với má như mọi ngày, chẳng có gì đáng nghi. Nhưng khi tới mé trảng, mọi người vo quần, cột chặt vật dụng lên lưng hoặc đội lên đầu để chuẩn bị lội qua trảng thì má bị một người đàn ông đi sau lưng bước tới kéo té ập xuống bờ trảng: “Có người theo dõi cô”.
Rồi một loạt đạn vang lên. Má không biết gì cả vì đã té xuống trảng, uống hết mấy ngụm nước lẫn bùn. Bà con đi làm đồng la hét vang trời, một ngày tang thương vì chưa thấy bóng bình minh mà đã có máu đổ.
Má không ngược lên mé trảng để trở về Trường Đức mà lội thẳng vô Năm Trại, mới hay “chú” Hai Đực được lệnh ra phía đồn Trường Lưu bảo vệ má vì có tin sáng nay lính đồn sẽ phục kích để tiêu diệt nữ giao liên của Năm Trại.
Hai Đực chính là người thanh niên hơn má 8 tuổi, người đã làm con tim tuổi 18 của má xao động. Trông anh già hơn tuổi, giọng nói trầm trầm nhưng rặt những “cá gô”, “cái ghế nhắc nồi” làm má cười ngặt nghẽo. Anh có biệt tài ráp cây làm lán trại rất nhanh, bản thân anh có hẳn một ngôi nhà treo trên cây thật gọn gàng. Anh dạy cô giao liên cách đan lưới cá, dạy đặt bẫy chim, quan trọng nhất là tác phong của người làm giao liên cứ phải tỉnh như không, “làm mà như không làm” mới mong qua mắt được bọn lính đồn. Những buổi như thế, họ hay ngồi dưới bóng cây bằng lăng, có cánh hoa tím rơi cài lên tóc má khiến anh sững sờ nhìn má rồi quay đi.

Má yêu tính cách trầm trầm, giọng nói rặt Tây Nam Bộ đó, yêu đôi bàn tay thoăn thoắt đan lưới, nhanh nhẹn chặt cây đó. Nhưng khổ nỗi ngay từ lần gặp đầu má đã gọi anh bằng “chú” mất rồi. Má hay trêu anh: “Người giỏi như chú Hai vầy, mai này lấy vợ chắc vợ được nhờ lắm đó”. “Tui chưa tính chuyện vợ con đâu cô Út. Đời trai nay đây mai đó, chuyện non sông đất nước chưa biết ngày nào xong thì tính vợ con làm chi?”. “Nhưng rồi một ngày nào đó chú cũng phải lập gia đình chớ?”. “Thì chắc vậy... Nhưng tui chỉ ưng người nào cùng chí hướng với tui thôi”.
Má đơn phương xem đó là lời hẹn ước.
Vậy mà hôm nay, người đó nhận nhiệm vụ đi bảo vệ má để rồi súng đã nổ.
Má hớt hải đi vào Năm Trại thông báo tình hình. Các chú trầm ngâm gật gù.
10h sáng hôm đó, tin dữ bay về: Đồng chí Hai Đực đã hy sinh trong lúc bảo vệ giao liên, địch đã đem xác về đồn Trường Lưu. Cả Năm Trại như dậy sóng. Má khóc như mưa khiến chú Sáu phải gắt: “Bây nín đi! Khóc quá, các chú rối càng rối thêm”.
Kế hoạch công đồn cướp xác đồng đội được vạch ra.
Má xung phong làm người dẫn đường, nhưng không được các chú chấp nhận vì lính đồn đã biết mặt má rồi. “Bây cứ ở yên đây, để các chú lo. Dù gì cũng không thể bỏ đồng chí Hai Đực”. Chú Sáu quyết định.
***
Chiến tranh qua đi, má về tham gia công tác ở Hội Phụ nữ huyện, ít năm sau thì chuyển qua Ban Dân vận, rồi sau đó về Hội Chữ thập đỏ. Má lấy chồng cùng công tác ở huyện và sinh ba đứa con. Hai chị gái đều học hành giỏi giang và về Sài Gòn làm việc, chỉ có Út Nhỏ thương vùng đất má từng đổ mồ hôi, nước mắt và đổ cả máu thời thanh niên nên ở lại quê nhà. Bây giờ anh là một chủ vườn nhãn với 5ha chuyên canh VietGAP.
Ba mất từ khi Út Nhỏ lên lớp 8, một mình má tảo tần nuôi các con nên người. Nên khi má về hưu, nói muốn trồng hai cây bằng lăng để “giăng võng nằm cho mát” thì Út cũng gắng tìm mua về trồng cho được.
Lần đó nằm nghỉ trưa dưới bóng cây bằng lăng trổ hoa tím má kể với Út về giấc mơ hồi má còn đi làm giao liên, trong giấc mơ má thấy bác Hai Đực không chết, ông bảo rằng vẫn ở bờ trảng chờ má quay lại và hỏi sao má chạy tuốt vào Năm Trại mà không quay lại tìm ông? Rồi má khóc tu tu: “Có phải vì má không tìm ông nên vết thương chảy máu nhiều quá làm ông chết không Út?”. Út Nhỏ xuề xòa qua chuyện, rằng mơ là ngược với sự thật, tên bác Hai giờ đã được khắc trên nhà bia tưởng niệm của xã rồi còn gì...
Hồi ba còn sống, Út luôn thấy ba là hậu phương của má. Má thường đi sớm về khuya, không có ngày chủ nhật, ba lo hết việc nhà, cơm nước giặt giũ, ủi cho má từng cái áo. Bởi ba nghỉ hưu từ lâu. Ba bảo Út: “Đàn bà mà giỏi việc nước đảm việc nhà thì cực lắm, nên cha con mình giúp được cái gì thì giúp. Hồi đó ba ham làm nông dân nên ba xin nghỉ hưu non. Má bây yêu công tác xã hội nên để bả làm. Việc nhà ba lo hết”.
Vậy mà ba mất khi chưa đầy sáu mươi.
Khi ấy còn chưa có hai cây bằng lăng trước nhà.
Bảy mươi mốt tuổi má mất, câu chuyện năm xưa cũng theo má hòa vào non sông như thân xác liệt sĩ Hai Đực hòa cùng đất nước. Những tán lá bằng lăng già cỗi xì xào xì xào buông từng cơn gió.
Chiến tranh khép lại sau ngày non sông liền một dải, nhưng hành trình để đến được hòa bình thì lời má vẫn còn âm âm trong tâm trí Út Nhỏ.