Công trình của người thợ Việt
Để thực hiện chính sách khai thác thuộc địa tại Việt Nam, năm 1897, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã quyết định xây một cây cầu bắc qua sông Hồng, đó chính là cầu Long Biên. Khi công bố kế hoạch xây cầu, ngay cả những quan chức thân cận với Paul Doumer cũng nghi ngờ nhiều hơn ủng hộ. Nhưng Paul Doumer vẫn quyết định cho xây cầu và đặt thời gian hoàn thành là 5 năm. Trong 6 công ty tham gia thầu, chỉ có Daydé et Pillé trúng thầu vì đưa ra thiết kế kiểu dầm chìa đỡ hai bên và giá thành rẻ hơn 3.000 france. Theo thiết kế, cầu Long Biên có 19 nhịp gồm 2 nhịp tiếp giáp hai bờ dài 78,7m, 9 nhịp dài 75m xen kẽ với 8 nhịp dài 106,2m, đặt trên 20 trụ. Chiều dài cây cầu cộng thêm phần dẫn tổng cộng là 2.500m. Chính tay Paul Doumer đã gắn tấm biển khắc ngày khởi công 12-9-1898 lên đầu cầu.
Ban đầu, nhà thầu chủ yếu thuê thợ Trung Quốc vì cho rằng người Trung Quốc to khỏe, lại từng tham gia các công trình lớn. Nhưng sau một thời gian, hơn 40 đốc công, kỹ sư nhận thấy thợ Việt Nam rất khéo tay. Trong bài Cây cầu Long Biên, Paul Boudet (Giám đốc Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương năm 1917) đã viết: “Chính nhân công bản xứ đã lắp ghép các thanh sắt, điều khiển những máy móc mạnh mẽ để cẩu trục các cây sắt lớn và lắp đặt những đinh tán. Lúc đầu thợ tán đinh phần lớn là thợ Trung Quốc vì họ khỏe hơn người An Nam nhưng dần sau đó, thợ An Nam đã gạt bỏ họ. Người An Nam dù sức có yếu hơn nhưng họ năng động và khéo léo...”.
Dù áp dụng công nghệ tiên tiến nhất thời kỳ đó nhưng cầu Long Biên vẫn gặp phải những khó khăn khi thi công các mố trụ. 20 trụ cầu sâu hơn 30m so với mặt nước vào mùa cạn là thách thức rất lớn. Để công nhân có thể làm việc trong điều kiện áp suất cao và thiếu ô xy dưới đáy hố móng, các kỹ sư đã chọn thợ người Việt vì khả năng chịu đựng dẻo dai. Sau khi đưa công nhân xuống hố trụ, họ cho thắp đèn điện công suất lớn rồi bịt kín miệng và bơm không khí xuống. Tuy vậy, công nhân xây móng chỉ có thể làm việc tối đa 4 giờ là phải đưa lên bờ và đổi kíp khác. Lúc cao điểm, công trường có tới 3.000 thợ người Việt.
Không chỉ nhân công người Việt, cầu Long Biên sử dụng tới 75% vật liệu trong nước, gồm 30.000m3 đá, hàng vạn mét khối gỗ lim lát mặt hai bên cánh gà lấy từ Thanh Hóa, hàng vạn tấn vôi chuyển từ Huế ra và hàng triệu tấn xi măng Hải Phòng. Khởi công ngày 12-9-1898 nhưng đến ngày 3-2-1902, nghĩa là chỉ hơn 3 năm, cầu đã hợp long. Lúc 8h30 ngày 28-2-1902, lễ khánh thành cầu được tổ chức. Vào thời điểm đó, Long Biên là cây cầu dài thứ hai thế giới, sau cầu Brooklyn ở Mỹ. Chính quyền thực dân đã lấy tên Toàn quyền Paul Doumer đặt cho cây cầu, nhưng dân chúng vẫn quen gọi là cầu Sông Cái. Cái tên Long Biên là do Thị trưởng Trần Văn Lai đặt năm 1945 với ý nghĩa cầu nằm trên đất thành Long Biên xưa.
Khi cầu Long Biên hoàn thành, đường sắt trên cầu cũng xong để chuẩn bị khớp nối với tuyến đường sắt Hà Nội - Phủ Lạng Thương. Cũng năm 1902, tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng dài 100km bắt đầu được xây dựng để phục vụ cho việc chuyên chở hàng hóa từ cảng về Hà Nội. Trong 10 năm đầu chỉ có người đi bộ, xe tay, ô tô con mới được qua cầu, còn xe tải từ Hà Nội đi các tỉnh phía Đông và phía Bắc hoặc ngược lại phải đi phà Cầu Đất. Để ô tô tải qua lại được, năm 1922, chính quyền cho mở rộng hai bên cánh gà, mỗi bên rộng 3,2m và 40cm dành cho người đi bộ. Lan can bằng sắt và gang do thợ sắt phố Lò Rèn thực hiện. Việc thi công hoàn thành vào năm 1924. Để giảm tải cho ga Hàng Cỏ, chính quyền cho xây thêm ga bên nội thành, đặt tên là ga Đầu Cầu (sau đổi thành ga Long Biên). Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), do thiết bị, hàng hóa quân sự của quân đội Pháp vận chuyển bằng ô tô từ Hải Phòng về Hà Nội với khối lượng quá lớn khiến cầu có nguy cơ không cân nên người ta đã thay đổi chiều đi - về hai bên. Vì thế mới có chiều đi từ Hà Nội ở bên tay trái và chiều về Long Biên ở bên tay phải như ngày nay.
“Chứng nhân” lịch sử
Cầu Long Biên là “chứng nhân” quan trọng bởi gắn bó với những thăng trầm lịch sử và nhiều sự kiện đáng nhớ của Hà Nội. Đặc biệt là hình ảnh những tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội qua cầu Long Biên và bộ đội ta tiến vào tiếp quản Thủ đô theo Hiệp định Genève. Chế độ cai trị của thực dân Pháp tại Việt Nam chính thức được đặt dấu chấm hết vào ngày 10-10-1954.
Trong chiến tranh chống Mỹ, cầu Long Biên là cây cầu duy nhất chuyên chở hàng hóa bằng đường bộ, đường sắt từ cảng Hải Phòng và biên giới phía Bắc về Hà Nội rồi tỏa đi các nẻo đường chi viện cho chiến trường miền Nam, vì thế cây cầu trở thành trọng điểm đánh phá của không quân Mỹ. Từ 1965 - 1972, máy bay Mỹ đã 14 lần ném bom và bắn rốc két phá hủy cầu. Thiệt hại lớn nhất là trận bom ngày 10-9-1972 làm gãy gục 3 nhịp, hư hại 4 trụ và hỏng 1.500m cầu. Ngay sau khi Mỹ buộc phải ngừng ném bom Hà Nội, ngày 30-12-1972, công nhân đường sắt đã bắt tay vào sửa chữa, đến ngày 11-2-1973 đã thông đường sắt và đường ô tô.
Cầu Chương Dương và cầu Thăng Long cùng được hoàn thành năm 1985 đã giảm tải đáng kể cho cầu Long Biên. Trải qua hơn một thế kỷ, đến nay cầu Long Biên hằng ngày vẫn phục vụ nhu cầu đi lại của người dân Hà Nội. Cây cầu trở nên thân thuộc với những người sinh sống, làm việc ở Thủ đô và vùng ngoại thành. Nhiều năm trở lại đây, cầu Long Biên và bãi giữa sông Hồng đã trở thành điểm du lịch yêu thích của du khách trong và ngoài nước. Hằng ngày, mỗi buổi sáng sớm và chiều tà, từng đoàn khách với đủ quốc tịch lại háo hức đi dạo trên lối đi dành cho người đi bộ, thích thú ngắm nhìn dòng xe đạp, xe máy chạy chầm chậm hay ghi lại những hình ảnh thơ mộng trên cầu.
Hà Nội dự kiến sẽ xây dựng cầu Tứ Liên và cầu Trần Hưng Đạo bắc qua sông Hồng. Khi hai cây cầu này hoàn thành, cầu Long Biên - biểu tượng kiên cường, hiên ngang của Hà Nội trong suốt những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sẽ “thảnh thơi” hơn. Khi đó, cây cầu hơn 100 tuổi này không chỉ tiếp tục là một địa điểm du lịch hấp dẫn mà còn có thể là nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa hấp dẫn của Thủ đô.