Nguyễn Trung Ngạn: Tấm gương tiêu biểu của trí thức Ðại Việt thế kỷ XIV

Nguyễn Năng Lực| 19/02/2023 06:14

(HNNN) - Nguyễn Trung Ngạn (1289 - 1370) là tấm gương tiêu biểu trong “thế hệ vàng” của trí thức Đại Việt thế kỷ XIV, có nhiều công trạng trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, luật pháp, sử học, văn học... Mùa xuân năm Tân Tỵ (1341), ông được vua Trần giao giữ chức Đại doãn Kinh sư, cai quản kinh thành Thăng Long.

Đền Hương Tượng. Ảnh: TL

Nguyễn Trung Ngạn tự Bang Trực, hiệu Giới Hiên, quê làng Thổ Hoàng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Đương thời ông được coi là “thần đồng”: 12 tuổi vào Quốc Tử Giám học thi Thái học sinh, 16 tuổi đỗ Hoàng giáp khoa thi Giáp Thìn (1304). Ông đã kinh qua nhiều chức vụ quan trọng, làm đến Tể tướng đầu triều, là đại thần trải 5 đời vua Trần: Trần Anh Tông (1293 - 1314), Trần Minh Tông (1314 - 1329), Trần Hiến Tông (1329 - 1341), Trần Dụ Tông (1341 - 1369), Trần Nghệ Tông (1370 - 1372).

Về văn học, Nguyễn Trung Ngạn là người sáng tạo thể thơ sáu chữ (lục ngôn thể). Ông để lại cho hậu thế tập thơ “Giới Hiên thi tập”, được sử gia Phan Huy Chú ca ngợi: “Lời thơ hùng hồn mạnh mẽ, sở đắc nhiều phong cách thơ của Đỗ Thiếu Lăng (tức Đỗ Phủ đời Đường)”. Mùa đông năm Ất Hợi (1335), phụng mệnh Thượng hoàng Trần Minh Tông, ông viết bài văn “Ma nhai kỷ công bi văn” và trực tiếp đôn đốc dân phu khắc trên vách núi thôn Trầm Hương, huyện Tương Dương, châu Nghệ An (nay thuộc huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An) để ghi lại công tích thắng giặc Ai Lao. Trải qua gần 700 năm, đến nay “Ma nhai kỷ công” còn rõ chữ trên sườn núi, là bài văn bia ma nhai cổ nhất nước ta và là một trong những bài văn bia khắc trên đá núi cổ nhất thế giới.

Về luật pháp, ông cùng Trương Hán Siêu phụng mệnh vua biên soạn hai bộ luật “Hình triều đại điển” và “Hình thư”. Năm 1332, làm An phủ sứ Thanh Hóa, ông lập ra Bình doãn đường để xét kiện, không việc nào bị oan uổng.

Về kinh tế - xã hội, năm 1336, Nguyễn Trung Ngạn giữ chức An phủ sứ Nghệ An kiêm Quốc sử viện Giám tu quốc sử, Hành Khoái châu lộ Tào vận sứ, lo việc vận chuyển lương thảo, ông cho lập hệ thống Tào thương (kho chứa thóc) để chẩn cấp cho dân nghèo, được vua khen, xuống chiếu sai các lộ cứ thế theo làm.

Bia “Ma nhai kỷ công” trên vách núi Trầm Hương, Con Cuông, Nghệ An. Ảnh: Năng Lực

Về quân sự, năm 1342, làm Hành khiển tri Khu mật viện sự, ông cho đặt Cấm quân, vốn thuộc Thượng thư sảnh, về dưới sự quản lãnh của Khu mật viện, nêu gương cải cách hành chính cho đời sau.

Về ngoại giao, Nguyễn Trung Ngạn luôn nêu cao tinh thần “hào khí Đông A”. Năm 1314, mới 26 tuổi, ông được vua Trần Minh Tông cử tiếp đón sứ thần nhà Nguyên và đi sứ đáp lễ. Với tài ứng đối và trí tuệ mẫn tiệp, ông giữ được thể diện quốc gia, khiến vua quan nhà Nguyên nể trọng. Năm 1324, Thái Định Đế nhà Nguyên sai Mã Hợp Mưu (Mahmud) và Dương Tông Thụy mang chiếu sang Đại Việt. Chúng ngông nghênh đi đến tận cầu Tây Thấu Trì không chịu xuống ngựa. Quan nha tiếp từ giờ Thìn đến giờ Ngọ không thuyết phục được, vua sai Thị Ngự sử Nguyễn Trung Ngạn ra, dùng lý lẽ bắt bẻ, sứ giả nhà Nguyên phải xuống ngựa, bưng chiếu đi bộ vào cung yết kiến vua ta.

Trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, sử gia Phan Huy Chú đánh giá ông là một “Người phò tá có công lao, tài đức” đời Trần cùng với Trần Quang Khải, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Đoàn Nhữ Hài, Trần Thì Kiến, Phạm Tông Mại, Trần Nguyên Đán. Nhận định về ông, “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Về sau hai lần sung chức Hựu sảnh (Nội mật viện). Đến đời Trần Dụ Tông vào triều, giữ trọn tiếng tốt, không phụ là bậc nho giả, thọ hơn 80 tuổi”.

Vì tiếng thơm khi làm quan và ân đức với dân chúng Thăng Long nên Kinh sư Đại doãn Nguyễn Trung Ngạn được người dân tôn làm nhân thần, thờ phụng ở 7 đền, đình tại vùng Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm), trong đó có đền Hương Tượng ở 64 Mã Mây (Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia), đền Tiên Hạ ở 46A ngõ Phất Lộc (tương truyền là nơi thờ Nguyễn Trung Ngạn ngay sau khi ông mất), đền Hương Nghĩa ở 13 Đào Duy Từ (cả ba ngôi đền này còn lưu giữ nhiều hiện vật quý từ đời Lê, ngợi ca sự nghiệp của ông). Các ngôi đình Mỹ Lộc (45 Nguyễn Hữu Huân), đình Phúc Lộc (số 6 Lương Ngọc Quyến), đình Ưu Nghĩa (2A Nguyễn Hữu Huân), đình Hương Bài (90 Trần Nhật Duật) cũng thờ phụng Nguyễn Trung Ngạn nhưng đều đã xuống cấp, biến dạng.

Phố Nguyễn Trung Ngạn nay là ngõ 18 Nguyễn Công Trứ.  Ảnh: Năng Lực

Năm 1945, Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai lấy tên ông đặt thay cho đường 272. Phố Nguyễn Trung Ngạn dài 46m, rộng 3m, thông từ phố Nguyễn Công Trứ sang phố Lò Đúc, nay chỉ là con ngõ cụt dài 20m. Năm 2011, phố Nguyễn Trung Ngạn đổi tên thành ngõ 18 Nguyễn Công Trứ. Ngày 20-3-2009, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cùng Ban chỉ đạo Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội và Dòng họ Nguyễn Hiền - Nguyễn Trung Ngạn phối hợp tổ chức hội thảo “Danh nhân văn hóa Nguyễn Trung Ngạn” tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đánh giá công lao và sự nghiệp của ông, hội thảo đã kiến nghị Thành phố Hà Nội đặt tên Nguyễn Trung Ngạn cho một con đường khác. Tại nhiều địa phương trong cả nước như thành phố Huế (tỉnh Thừa Thiên - Huế), thành phố Vinh (tỉnh Nghệ An), thành phố Đà Nẵng, thành phố Nam Định (tỉnh Nam Định), thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang), thành phố Hưng Yên, thị trấn Ân Thi (tỉnh Hưng Yên), quận 1 và quận 8 thành phố Hồ Chí Minh cũng đã có đường phố mang tên danh nhân Nguyễn Trung Ngạn.

“Uống nước nhớ nguồn”, người Hà Nội rất mong Thủ đô sớm có đường phố mang tên Nguyễn Trung Ngạn để xứng đáng với những công lao, đóng góp cho đất nước của danh nhân văn hóa - lịch sử này.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Nguyễn Trung Ngạn: Tấm gương tiêu biểu của trí thức Ðại Việt thế kỷ XIV