Xưa và nay

Ký ức “những năm bom Mỹ trút trên mái nhà”

Nguyễn Năng Lực 20/04/2025 - 06:13

Ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ gây ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, lấy cớ phát động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, đưa máy bay ném bom miền Bắc. Thủ đô Hà Nội là mục tiêu trọng điểm có nguy cơ bị ném bom...

so-tan.jpg
Một lớp học thời chiến. Ảnh: Tư liệu

Trên vỉa hè đường phố bắt đầu xuất hiện những hầm trú ẩn cá nhân, gọi là “tăng xê”, hình tròn đường kính gần 1m, sâu hơn 1m, có nắp đậy bằng tấm đan xi măng có cái lỗ hình bán nguyệt để nắm tay nhấc ra. Thỉnh thoảng có tiếng còi báo động từ chùm loa trên nóc Nhà hát Lớn hay dưới mạn Nhà máy Cơ khí Hà Nội, bây giờ là Khu đô thị Royal City (quận Thanh Xuân), rú lên inh ỏi và tiếng loa phát thanh: “Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý. Máy bay địch cách Hà Nội 40 cây số. Đồng bào cần bình tĩnh xuống hầm trú ẩn. Các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu...”.

Theo chủ trương của thành phố, các cơ quan, trường học, bệnh viện, xí nghiệp, kho tàng, các viện nghiên cứu khoa học, các trường phổ thông, tất cả những ai không trực tiếp sản xuất, phục vụ chiến đấu và chiến đấu đều đi sơ tán để giảm bớt mật độ dân số nội thành, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do bom đạn Mỹ.

Học sinh đi sơ tán với tâm trạng vô tư, ban đầu hơi bỡ ngỡ, chưa hiểu “sơ tán” là thế nào, sau rồi cuộc sống nơi sơ tán nhiều cái lạ lẫm cuốn đi. Bài hát “Bé đi sơ tán” giai điệu trong sáng phát trên loa truyền thanh công cộng. Bọn trẻ hay “xuyên tạc” lời bài hát thành “bé bé bằng bông, hai má bằng đồng, bé đi sơ tán bế em đi cùng...”, nhờ đi sơ tán mà nhiều đứa trẻ thành phố biết bơi đấy.

Trại sơ tán trẻ con Nhà máy Diêm Thống Nhất đặt tại xã Tam Rỵ (huyện Lục Nam, tỉnh Hà Bắc), chia nhóm theo lứa tuổi. Bọn thiếu niên có bốn, năm chục đứa ở dãy nhà vốn là nhà kho hợp tác xã, có sân rộng. Con trai, con gái ở “hai đầu xa thẳm” riêng. Từ nhà đến trường phải đi men sườn đồi, qua mấy ruộng lúa, những rặng tre xanh rì. Lớp tôi có bạn lớn tuổi, đã có vợ có con, khiến lũ nhóc Hà Nội sơ tán cứ “mắt tròn mắt dẹt” không dám hỗn với anh ấy. Sau này nghĩ lại mới thấm tinh thần hiếu học của dân mình. Thỉnh thoảng vào ngày nghỉ, bọn trẻ lại được anh Ngọc là phụ trách dẫn vào rừng chơi. Khoái nhất, hồi hộp nhất là đi tìm hạt dẻ, những cái hạt đầy quyến rũ màu nâu sẫm còn trong áo gai mềm ẩn mình dưới lớp lá rụng. Đứa nào tìm thấy là hét toáng lên đầy phấn khích, rồi chiều đem về rang ăn chung, bùi ơi là bùi.

Người ta bảo “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò” quả không sai, nhất là học trò sơ tán. Có lần thằng Thành gạ gẫm một đứa trẻ trong làng cho trèo lên lưng trâu. Vừa nhong nhong được một đoạn, con trâu vùng vằng hất Thành ta ngã lộn về phía trước, trẹo tay phải đi bó bột, may mà không rơi vào cặp sừng đang khua khoắng của nó. Từ đó, không đứa nào dám lại gần trâu.

Hồi đó, chúng tôi đứa nào cũng có cây súng cao su. Có lần thách nhau bắn gà, tôi làm một phát trúng cổ con gà đang đi dưới rặng tre. Con gà quác lên thảm thiết rồi vùng chạy, cái cổ bị gẫy cứ vật vã lắc qua lắc lại. Sau bận ấy, tôi đâm ân hận, vứt súng cao su thề không chơi nữa.

Đi sơ tán, càng thấu hiểu nghĩa đồng bào lúc hoạn nạn. Hai năm lớp 8, lớp 9, tôi học Trường cấp 3 Gia Lương (Hà Bắc). Tôi trọ học cùng ba người bạn: Ngọc, Doanh, Lịch ở nhà bác Dân, được bác cho ở hẳn một gian, lại thêm cái giường gian ngoài. Bác thường múc nước mắm cua ủ trong cái vại nhỏ cho mấy đứa. Nước mắm cua màu trắng đục, ngon đến tận bây giờ vẫn nhớ. Từ nhà xuống trường, xa gần chục cây số, cứ thứ bảy tôi đi bộ về với mẹ, chiều chủ nhật lại đi bộ xuống nhà trọ, toòng teng một gánh nhỏ, một bên là 10 ống bơ gạo và chai xì dầu, một bên là bó củi nhỏ, trong túi có một đồng mẹ cho là tiền mua thức ăn cả tuần. Lớp học ở giữa làng, xung quanh đắp lũy đất chống bom. Học sinh sơ tán chỉ có tôi, thằng Tuấn có bố “làm to lắm” và cái Dung ở phố cổ, cái Lộc ở phố Tây. Giữa học sinh địa phương với học sinh sơ tán không có mấy cách biệt, chả gì cũng sắp thành người lớn. Hôm làm lễ kết nạp Đoàn cho mấy bạn trong lớp, cậu Ba bí thư chi đoàn cứ lóng ngóng không dám cài huy hiệu lên ngực áo cái Lành, nơi bộ ngực đã nhu nhú. Cuối cùng, Ba ta dúi huy hiệu vào tay nó, mặt đỏ bừng nói: “Đi mà đeo lấy”.

Đến năm lớp 10, tôi về Hà Nội, học Trường cấp 3 Yên Hòa B, là trường dành cho học sinh nội thành sơ tán ra ngoại thành. Lớp nằm ở cuối làng Dịch Vọng, dưới rặng tre um tùm, xung quanh vẫn có lũy đất chắn bom như mọi lớp học ở miền Bắc thời ấy. Sơ tán vất vả, nhưng tôi và các bạn vẫn miệt mài học và học tốt, tháng nào cũng xếp loại A3, có tháng A2. Lớp có nhiều bạn là con em cán bộ cấp cao, cán bộ miền Nam đang chiến đấu ở chiến trường.

Thế hệ học sinh sơ tán là “thế hệ vàng” của đất nước. Sau này Trường Yên Hòa B có bạn trở thành nhà khoa học hàng đầu về vật lý nguyên tử, có bạn là nhà văn, doanh nhân. Và nhiều bạn ra trận không về. Có Nguyễn Văn Thạc với cuốn nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi”, trở thành biểu tượng cho một thế hệ thanh niên sinh viên “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”, dâng hiến tuổi trẻ cho đất nước thống nhất, Tổ quốc trường tồn.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Ký ức “những năm bom Mỹ trút trên mái nhà”