Hà Nội văn

Ký ức về trong nắng

Lữ Mai 17/08/2025 - 05:55

Nắng chiều xiên qua vòm sấu già, chiếu xuống từng vệt dài loang lổ mặt sân gạch cũ. Căn nhà cũ của ông Huỳnh lọt thỏm giữa những khu nhà cao tầng mới mọc.

Trong bộ quân phục cũ đã sờn, ông ngồi dưới giàn thiên lý ở góc sân, chậm rãi lau chiếc bi đông méo mó trên tay bằng mảnh khăn mùi xoa sạch bong, mềm mại. Trước mặt ông là chiếc rương gỗ cũ kỹ xếp ngay ngắn nhiều kỷ vật, có cả những chiếc bi đông khắc riêng những cái tên: Tân, Mậu, Khang... Những đồng đội của ông ngày ấy, giờ vẫn nằm lại đâu đó trong rừng sâu…

minh-hoa-2.jpg
Minh họa: Lê Trí Dũng

Bà Lành từ trong nhà bước ra, tay phe phẩy chiếc quạt nan, nói giọng không vui: “Ông lại thế nữa rồi. Suốt ngày lau với chùi. Không chán à?”. Ông Huỳnh vẫn tỉ mẩn lau từng góc cạnh chiếc bi đông, giọng trầm trầm: “Chỗ vết xước dài này là hôm tôi với thằng Khang tránh pháo kích, nó bị đạn cày trúng, còn cái này…”. Ông nâng chiếc bi đông khắc chữ “Mậu” lên: “Thằng Mậu lúc sắp đi còn dúi vào tay tôi cái này, bảo “giữ giúp tao nhé, có khi mai lại cần”. Ai ngờ mai nó đi luôn…”. Bà Lành cau mày, xua tay: “Thôi ông đừng kể nữa, nghe mãi rồi”. Nói rồi bà bước đến giật chiếc khăn trong tay ông, giọng dứt khoát: “Người chết cũng chẳng sống lại được, cứ ôm mãi quá khứ thì bao giờ mới thoát ra?”. Ông Huỳnh không đáp, lặng lẽ nhìn chiếc rương gỗ.

***

Thành dựng xe vào góc sân, thấy bố ngồi bên đống kỷ vật, anh thở dài: “Con nói bao lần rồi, bố đừng dằn vặt mãi với mấy thứ này nữa”. Ông Huỳnh nhìn con trai, mắt loáng ướt: “Con biết mấy thứ này là gì không?”. “Dạ, con biết. Nhưng đó là chuyện của quá khứ. Giờ bố nên sống cho hiện tại”. Ông Huỳnh cười nhạt: “Thế quá khứ không quan trọng à? Nếu không có quá khứ thì làm gì có hiện tại như con nói?”. Thành gãi đầu, giọng dịu hơn: “Con không dám bảo quá khứ không quan trọng. Nhưng bố cứ đau đáu mãi, liệu thay đổi được gì không? Con với em Ngọc đã bàn rồi, hay bố mẹ chuyển vào trung tâm, ở chung cư cho tiện. Nhà này cũ quá rồi, hơn nữa, chung cư có thang máy, có bảo vệ, bố mẹ đỡ vất vả”. Bà Lành hưởng ứng: “Đúng quá! Mẹ nói mãi bố con không chịu nghe. Ra ngoài kia thấy người ta đổi đời, mình cứ ôm mãi ký ức”.

Ông Huỳnh lặng đi. Với vợ con ông, nhà chỉ là nơi ở, chiến tranh là chuyện đã qua, liệt sĩ là người đã khuất… Ông đứng dậy ôm chiếc rương vào nhà, vừa bước vừa nói: “Ôm ký ức, nhưng tôi chẳng làm được gì. Đã tự hứa trở lại chiến trường xưa đưa hài cốt đồng đội về, vậy mà bao năm ròng không làm được”.

***

“Giờ già rồi, sức đâu mà đi tìm? Bao nhiêu đoàn đi, tìm mấy chục năm nay có thấy đâu! Ông tìm kiểu gì?”, bà Lành lại bực dọc khi chồng vân vi ngỏ ý trở lại chiến trường xưa. “Tôi phải đi”, giọng ông lần này đầy quả quyết. Bà dằn dỗi tuyên bố: “Ông mà đi là tôi từ ông luôn! Cả đời này tôi khổ vì ông quá đủ rồi. Ông ra trận, tôi ở nhà một mình nuôi con, khổ sở không dám than. Ông về, lại tiếp tục sống trong cái bóng của người đã khuất! Ông cứ thử nghĩ xem…”.

Từng lời nói cắt vào lòng ông đau điếng. Ông Huỳnh chậm rãi ngẩng lên, nhìn vợ. Gió đầu hè thổi qua mái tóc bạc, nắng hắt vào từng nếp nhăn, từng vết sẹo sâu hoắm trên gương mặt ông. “Bà giận tôi cũng đúng. Nhưng hãy thử đặt mình vào tôi xem. Nếu ngày nào đó tôi mất tích, không ai biết tôi nằm đâu, bà có muốn tìm không?”. Bà Lành khựng lại, phẩy quạt rất mạnh rồi đứng dậy, bỏ vào trong nhà.

“Một mình bố đi sao ạ? Bố có nhớ chỗ nào mà tìm không? Sức bố còn chịu được không?”. Nghe Ngọc, cô con gái út ông vốn cưng chiều, sốt sắng nói, ông Huỳnh khẽ thở dài: “Nếu một ngày nào đó không thấy bố, con có tìm bố không?”. Ngọc ngẩng lên, mắt sũng nước, mím môi đáp: “Tất nhiên là con tìm, cả mẹ và anh Thành nữa, cả đại gia đình mình”. Ông Huỳnh cười trìu mến: “Thế thì con đã hiểu rồi đấy”.

***

Nắng như quánh lại, rót qua giàn thiên lý. Ông Huỳnh đứng dậy vươn vai, hít hơi dài rồi đi vào nhà. Nhưng khi mở nắp rương gỗ, ông giật nẩy mình. Những chiếc bi đông và các món kỷ vật khác đã biến mất. Tay ông run lên, sờ tận đáy rương, lật tung lớp vải lót, rồi ông đảo mắt khắp gian buồng. Không có. Ông quét ánh mắt ra sân, nhìn xuống chỗ chiếc bàn mây. Cũng không có!

“Bà Lành ơi!”, ông gọi lớn, giọng khàn đặc. Bà đang lúi húi trong bếp, nghe tiếng chồng bèn ngẩng lên: “Gì mà ông gọi om sòm thế?”. Giọng ông đầy hoang mang, lo lắng: “Bà có thấy các thứ trong rương gỗ của tôi đâu không?”. Bà Lành tay đảo thức ăn, giọng dửng dưng: “À, lúc nãy cái Ngọc chở giúp việc nhà nó qua đây, tiện thể tôi bảo bà ấy dọn dẹp đi rồi”. Ông Huỳnh tưởng mình nghe nhầm. “Bà nói cái gì?”. “Tôi bảo bà giúp việc dọn dẹp hết rồi”, bà Lành nhấn mạnh. “Rầm”, ông Huỳnh đập tay xuống bàn. “Bà dám… bà dám đụng vào kỷ vật của tôi?”. Bà Lành giật mình nhưng cố giữ vẻ bình tĩnh: “Ông quyết giữ làm gì?”. Ông Huỳnh giận dữ, đau đớn, tuyệt vọng khuỵu xuống. Cơn sốc trào lên, cổ họng nghẹn lại. Ông nói chậm từng lời, như khắc vào không khí: “Bà không hiểu gì cả…”. Nói rồi ông quay ngoắt, loạng choạng bước ra khỏi nhà.

***

Ông đi thẳng ra cổng, không biết mình sẽ đi đâu, chỉ biết phải đi, nếu không, cảm xúc sẽ bùng lên, thiêu đốt cả cõi lòng mình. Mấy bà trong xóm gánh rau đi bán, trẻ con ríu rít gọi nhau. Nhưng ông không để ý. Ông rảo bước, đi qua chợ, đôi mắt quét tìm từng góc, le lói hy vọng. Tới đầu chợ, ông nhận ra Ngọc đang to tiếng với bà giúp việc: “Bác bỏ đi đâu? Bác bán cho ai?”. Người phụ nữ nhỏ bé, tội nghiệp càng run sợ khi thấy ông Huỳnh: “Ôi… Chỉ là mấy cái đồ cũ thôi mà”. “Cháu hỏi lại, bác bỏ hay bán?”, Ngọc cố nén cơn tức giận. “Tôi bán…”, người giúp việc miễn cưỡng đáp. “Chắc người ta đi lâu rồi bố ạ, tìm sao được”. Ánh mắt con gái nhìn ông đầy áy náy. Ông vỗ nhẹ vai con, hơi thở chậm lại. Bao nhiêu kỷ vật rồi sẽ về đâu?

Ông Huỳnh và con gái trở về nhà. Sân vẫn nắng vàng rực rỡ. Hương hoa bưởi ngan ngát. Nhưng mọi thứ lúc này trống rỗng. Có lẽ bà Lành gọi điện báo cho Thành về, anh đứng đợi bên hiên, lên tiếng trước: “Bố, con biết chuyện rồi, từ từ rồi ta tính”. Ngọc đỡ lời: “Chúng con xin lỗi bố! Nhưng… bố cũng đừng giận mẹ nữa. Mẹ không cố ý làm bố buồn đâu”. Ông Huỳnh nén tiếng thở dài. Ông cũng ngậm ngùi hiểu rằng, có những thứ khi mất đi, sẽ không bao giờ quay trở lại.

***

Trời về chiều, nắng đổ xuống mái ngói nâu phủ rêu. Ông Huỳnh vẫn ngồi lặng phắc. Cảm giác mất mát vẫn tràn ngập cõi lòng. Không hẳn chỉ vì kỷ vật, mà bởi một điều gì đó lớn hơn. Cảm giác dường như cả quá khứ của ông cũng đang dần phai nhạt, bị chính những người thân yêu nhất lãng quên.

Chợt một bàn tay nhỏ nhắn bỗng khẽ chạm vào ông: “Ông nội ơi! Ông làm sao thế ạ?”. Ông Huỳnh quay lại. Trước mặt ông là bé Hổ con trai Thành, mới tám tuổi, mắt tròn xoe như hai hạt nhãn. Nó đứng sát bên ông, biểu cảm đầy tò mò. Bên cạnh là Hươu - chị gái nó, mười một tuổi, tóc buộc hai bên, dáng cao mảnh khảnh. Hai đứa trẻ nhìn ông chăm chú, vẻ e dè nhưng cũng đầy quan tâm.

“Ông không sao”, ông Huỳnh khẽ đáp, giọng trầm xuống. “Thế sao ông buồn thỉu buồn thiu suốt nãy giờ?”, Hươu nghiêng đầu, đôi mắt ánh lên vẻ suy tư. Ông Huỳnh chậm rãi đáp: “Các cháu còn nhớ những chiếc bi đông không? Giờ mất rồi”. Hươu gật gù: “Con thấy nhiều lần lắm rồi. Mấy cái bình tròn tròn phải không ạ?”. “Ừ, đúng rồi! Đó là kỷ vật của đồng đội ông!”, Hổ tròn mắt: “Thế kỷ vật là gì hả ông?”. “Là những thứ mà khi nhìn vào, mình sẽ nhớ về ai đó, hay chuyện gì đó. Giống như bức ảnh của bố con lúc nhỏ, hay như mẹ vẫn giữ chiếc cặp tóc hồi bé vẫn dùng”. Hươu đáp như nhà thông thái. “Thế những người bạn của ông? Ông vẫn quyết đi tìm chứ ạ?”, Hổ hỏi như biết rõ ràng chuyện trong nhà. “Ông vẫn muốn tìm, nhưng…” - Ông Huỳnh nhìn vào mắt cháu, cảm nhận được lời nói trẻ thơ đang đánh thức điều gì đó sâu kín trong lòng. Hổ thỏ thẻ: “Nếu là con, con cũng muốn đi tìm bạn!”. Hươu gật đầu lia lịa: “Đúng rồi! Con cũng đi tìm! Lâu đến đâu, xa đến mấy cũng tìm!”.

Ông nhìn hai đứa cháu, nở một nụ cười buồn.

***

Bữa cơm ban đầu vẫn diễn ra trong không khí buồn tẻ. Bà Lành thỉnh thoảng liếc chồng, chẳng dám nói gì thêm. Bất chợt Thành lên tiếng: “Bố ạ! Việc bố muốn đi tìm đồng đội ấy, con thì chỉ nghĩ đường sá xa xôi, sức khỏe không còn như trước. Hơn nữa, đó là công việc không đơn giản”. “Bố không ngại khó”, giọng ông như bừng tỉnh, rắn rỏi. Bà Lành đặt bát cơm xuống bàn, nhìn con trai: “Được rồi, nếu bố thật sự muốn đi, con thử tìm hiểu xem có đoàn nào đi tìm hài cốt liệt sĩ thì liên hệ giúp bố”. Ông Huỳnh hơi bất ngờ rồi lặng lẽ gật đầu.

Sau bữa cơm, như thường lệ ông cháu lại ra ngồi dưới giàn thiên lý. Hươu nắm tay ông, ánh mắt long lanh: “Cả nhà không ai ngăn ông đi tìm đồng đội nữa đâu. Nhưng ông phải hứa sẽ đi cùng người khác, không đi một mình ông nhé?”. Lòng ông chợt dâng lên niềm tin ấm áp lạ kỳ. “Được, ông hứa”.

Thành từ trong nhà đi ra, mang theo chén nước đưa cho bố, giọng quả quyết: “Nếu bố thực sự muốn đi, con sẽ thu xếp công việc đi cùng bố một chuyến”. Ông ngạc nhiên nhìn con trai, bởi từ trước đến nay Thành luôn phản đối ý định trở lại chiến trường xưa của ông. “Con đã suy nghĩ lại. Điều quan trọng với bố cũng là quan trọng với cả gia đình mình”, lời con trai khiến ông trào nước mắt. Bà Lành và Ngọc lặng lẽ đứng bên hiên, nhìn ông bằng ánh mắt ấm áp yêu thương, dịu dàng…

(0) Bình luận
Ký ức về trong nắng