Hà Nội văn

Phố mưa

Truyện ngắn của Lữ Mai 09/07/2023 - 10:58

“Dũng, xe ôm!” - tấm biển ngắn gọn được chủ nhân “con ngựa sắt” cắm trước đầu xe cách đây chừng một tháng. Hàng xóm bảo: “Ông cần gì phải làm biển, cứ đứng đầu phố ắt thiên hạ hiểu ông chạy xe ôm”. Nhưng vốn dân công chức, bản tính cẩn thận nên ông kẻ vẽ ra giấy A3, tẩy xóa cả buổi mới đưa mẫu cho cơ sở làm biển quảng cáo in ra.

Gia cảnh ông không quá khá giả nhưng cũng chẳng thiếu thốn đến mức tuổi già phải bươn chải ngoài đường.

minhhoa2.jpg
Minh họa: Lê Trí Dũng.

Vợ chồng ông sáng sáng vẫn ra đầu phố ăn quà vặt, xong xuôi bà nhập hội với câu lạc bộ dưỡng sinh, còn ông đứng chờ khách. Ngày nắng cũng như ngày mưa, chẳng thấy ngơi nghỉ bao giờ.

Ông cắt nghĩa với những “đồng nghiệp” mới: “Bao năm làm lụng, giờ chôn chân ở nhà cả ngày, cứ sinh lời là sinh chuyện. Tưới mấy chậu cảnh, quá tay rớt nước xuống hàng xóm tầng dưới là buông lời cạnh khóe nhau. Chiều rủ rỉ mắng yêu con chó, vợ bảo sao toàn nói chuyện với chó, chẳng thấy nói với người, hay là khinh nhau”, giọng ông pha chút ngậm ngùi.

Ban đầu, khi ông nói câu chuyện mình quyết định chạy xe ôm, cả nhà đồng loạt “khởi nghĩa”. Việc để ông chạy xe hay không nối dài trong sự im lặng đến khó hiểu của đại gia đình. Mãi sau, ông bộc bạch với con gái út, đứa con ông gần gũi, cưng chiều nhất nhà: “Sáng thức dậy, bố thèm nghe âm thanh phố xá, thèm dự phần đúng nghĩa vào những cuộc chuyện trò”. Đứa con vươn vai bước khỏi căn phòng, tựa ban công nhìn phố. Căn nhà xưa cũ giờ chỉ mỗi vợ chồng ông vào ra, thỉnh thoảng, ngày lễ tết hoặc cuối tuần, con cháu đã lập gia đình riêng mới về thăm cha mẹ, ông bà.

Đại gia đình ấy, mỗi người một tính cách, thói quen, và nếu nói về những cuộc chuyện trò đúng nghĩa thì ngoài cuộc đối thoại vân vi nhưng ngắn gọn giữa ông và con gái út, e rằng đã lâu lắm, không hề có.

Mới vào nghề một tháng mà giai thoại ông Dũng xe ôm đã lan truyền khắp phố. Tan tầm, người người cấp tập, đến cái biển ông dựng ngay ngắn khách cũng chẳng ngó qua, cẩn thận quá hóa thừa. Có thanh niên đầu nhuộm xanh đỏ ngoắc tay vẫy, ông chưa kịp “bắt sóng” thì “đồng nghiệp” bên cạnh đã vít ga xe đón mất. Phần nhiều khách chỉ gọi vóng lên “Ê!”, “Này!” một tiếng, chả ai thưa thốt “Bác Dũng ơi…” hay “Xe ôm ơi!”. Ai làm thế nào kệ họ, ông cứ ung dung chờ đợi, thể nào cũng đến lượt mình. Lòng ông ngầm kiêu hãnh định ra cái “phân khúc khách hàng” biết chào hỏi đầu đuôi với người lao động chân chính là ông.

Ngày ấy rốt cuộc cũng đến, một thanh niên gọi ông chở ra bến xe. “Trong bọc này có gì mà cậu gói ghém, chằng buộc kỹ thế?”. Khách đáp lời: “Chỉ là mấy thứ gốm sứ xoàng thôi”. “Chậc chậc! Đồ dễ vỡ thế càng phải cẩn thận cậu ạ!”, ông vừa nói, vừa nhích nhẹ tay ga. Phố đang ùn tắc, kẹt cứng bỗng nhao lên vì tiếng người, tiếng động cơ rồ ga ầm ào, thêm cả dùi cui điện vung lên tạch tạch. Tay lái ông loạng choạng bởi cú băng người khỏi xe của người ngồi phía sau. Trong chớp mắt khách đi xe bị hai anh công an quật ngã, còng tay. Đám đông xôn xao xì xào: “Quân trộm cướp”...

Phải theo về trụ sở công an làm giải trình, xong xuôi, cả người ông Dũng đẫm mồ hôi dù gió trời đang đổi hướng đón mưa về. “Mở hàng đã hoành tráng thế này, chả biết mấy nữa ra sao!”, câu hờn mát của bà vợ khiến ông bỏ bữa. Ông đi nằm sớm, vắt tay lên trán. Đầu óc ông quẩn quanh mãi câu hỏi: Tại sao một thanh niên mặt mũi sáng sủa, nói năng thưa gửi đàng hoàng, đang sức dài vai rộng thiếu gì việc lương thiện để làm lại có thể trộm cắp rồi bị bắt bớ giữa ban ngày? Rồi ông chìm vào giấc ngủ, ú ớ những cơn mơ nặng nhọc.

Sáng hôm sau, ông vẫn đứng chờ đầu phố. “Bác Dũng!”, tiếng gọi đủ nghe vang từ phía sau. “Cậu về đâu?”. Người đàn ông chừng bốn mươi tuổi hơi khựng lại, tay nhấc khẽ gọng kính bèn nói: “Bác cho cháu lên đường Yên Phụ”. Ông đưa mắt nhìn hành lý của khách, chỉ một chiếc cặp da bóng lộn. Riêng lòng ông biết, phản xạ ấy mới vừa có từ lúc vô tình chở kẻ gian. “Cậu lên mạn ấy thăm người thân hay đi công việc?”, ông hỏi nhỏ khi đi một quãng xa xa, phá vỡ không khí im lặng. “Cháu lên thăm hàng cây cơm nguội!”, lời nói của khách nghiêm túc, không chút bông đùa.

Ở Hà Nội, hình như chỉ đường Yên Phụ là còn mấy chục gốc cây ấy. Bốn mùa lúc nào cành lá cũng một sắc vàng càn cạn, đìu hiu, trông đến là buồn. Ông bắt đầu nghĩ ngợi, khách đi xe ôm không vì công việc thì cũng về quê, về nhà, thậm chí là mưu đồ xấu, mấy ai xách cặp da đi ngắm cây cơm nguội vào giữa trời hè oi ả thế này. Phía sau ông, từ lớp áo sơ mi lịch lãm của khách phảng phất mùi nước hoa sang trọng.

Xe dừng đúng khúc giữa đường Yên Phụ. Cuộc chuyện trò từ giao đãi, đề phòng trở sang thân gần hơn. Tài xế xe ôm và khách tạt vào một quán nước vỉa hè. “Cháu không phải người ở đây nhưng ngày xưa cũng yêu được con gái Hà Nội đấy. Năm nào gần Tết cháu cũng mang đến nhà cô ấy một cành đào hoặc một chậu quất. Cả đào và quất đều nhỏ xinh thôi nhưng đủ nụ hoa, chồi lá. Tết năm đầu tiên khi cháu đi học nước ngoài trở về, vì một chuyện hiểu nhầm, không giải thích được với cô ấy mà chỉ cháu vác cành đào đứng mãi ngoài mưa”, người khách thao thao kể.

“Có những chuyện, sao con người ta mãi mãi không nói được với nhau, không hiểu sâu xa còn lý do gì khác. Sự cách biệt cứ như là định mệnh. Như thể đến phút ấy, giờ ấy, ngày ấy là rời xa nhau”, khách vẫn nói và uống hết chén trà dù vị trà ngang ngang, dở tệ. “Đôi khi, cháu thèm những chuyến đi, chỉ để tự mở lời cho chính mình. Năm nào có dịp về nước, cháu cũng tạt đến con phố cũ, giữ khoảng cách vừa đủ tầm nhìn rõ ba con số khắc trên cổng nhà. Cô ấy đi lấy chồng, nếu gõ cửa, bố mẹ cô ấy có thể sẽ tiếp đón, nhưng tay cháu chưa bao giờ bấm nổi một hồi chuông”, nghe khách nói đến đấy, ông Dũng hơi ngờ ngợ. Lẽ nào đó là bạn trai cũ của con gái đầu nhà ông.

Mùa xuân thuở ấy rét căm căm, cả nhà ông đồng tình với chuyện nó chôn chân trong nhà không ra mở cửa. Chỉ ông nhìn những cành đào rung rinh, ánh mắt hết đợi chờ rồi ứa tràn thất vọng của chàng trai trẻ mà chạnh lòng. Làm sao có thể yêu nhau, sống bên nhau hoặc tha thứ cho nhau khi con người khước từ sự đối thoại? Nhưng điều ấy là nhu cầu mỗi con người, sao khuyên nhủ được nhau. Ông nghĩ thế, quyết định gọi con gái vào nói chuyện. Câu chuyện tan loãng dần tới khi không còn một sự khẩn cầu, chờ đợi nào xuất hiện bên ngoài cửa ngõ. Hà Nội những năm tháng đó không rộn rã taxi, xe ôm và cả bao nhiêu dịch vụ như bây giờ. Hai người đàn ông, một trung tuổi một thanh niên, cũng hẹn nhau ở quán nước. Lạ lùng, đời sống đơn sơ mà quán hàng ấm áp, đủ thức trà ngon, kẹo bột, bánh mỳ ủ trong vải bông nóng hổi, góc bàn còn leo lét ngọn đèn hạt đỗ, nhìn thôi đã thấy ấm lòng.

“Bên ấy gia đình cháu ra sao?”, ông ôn tồn hỏi. Người khách một thuở thân gần với nhà ông và cả khu phố kể, vợ chồng anh đều là doanh nhân, có thể gọi là thành đạt theo cách số đông định nghĩa và có với nhau hai đứa con đang học phổ thông nhưng gần như không dự phần vào những tâm tư, chuyện trò thật đúng nghĩa của nhau. Tết hay hè nào được về nước là ba cái đầu còn lại cắm cúi vào ba chiếc điện thoại, thỉnh thoảng hú hét hoặc cười rú lên. “Thế còn gia đình ta ạ?”. Ông hiểu ngụ ý. Ông kể về đứa con gái đầu lòng, mỗi lần vợ chồng con cái kéo về nhà ông, cũng là ba cái đầu chúi vào ba chiếc iPad, không chuyện trò cùng nhau, cũng chẳng chuyện trò cùng ông. Ông về hưu đã lâu, luôn kiếm việc gì đó để làm. Ông sợ cảm giác ngồi trong nhà, sờ tay vào túi vẫn thấy tiền, ngẩng đầu lên vẫn thấy người mà mọi thứ hoặc riêng biệt, hoặc chắp vá, vô vị.

“Thôi bác cháu mình về…”, lừng khừng mãi ông cũng cất lời. Dưới màn mưa xiên ngang, hàng cơm nguội đầy lên muôn sắc vàng càn cạn. Phố đúng giờ tan tầm, nghèn nghẹt người xe, hơi thở và giọng nói sau lưng ông trầm ấm, đầy kỷ niệm. Ông biết, nếu ông nói câu chuyện này với con gái, hay kể cả với vợ và những thành viên khác, cũng chỉ nhận về câu “Ô thế à?” hoặc “Chuyện cũ quá rồi”. Đi được nửa đường, khách chợt nhờ ông ngược lên mạn chợ hoa Quảng An tìm mua bó sen bách diệp, chỉ để riêng anh ngắm thôi, sau cuộc đối thoại thấp thoáng bóng hình và nỗi niềm xưa cũ.

Phố sắp mưa, ngày mai, ông vẫn chờ đợi. Ông tự hỏi lòng, trong đám đông tất bật ngoài đời sống kia, có bao người như vị khách này cần mình đón đưa và cùng đánh thức nhau bằng ký ức xa xăm. Đằng đông, mây đã ùn ùn kéo đến. Nhấp ngụm trà, ông thư thả nhìn bụi tóc tiên dạt mình trong gió. Chẳng mấy chốc, khi mưa ào xuống, những bông hoa, cuống hoa mềm mại kia sẽ rạp mình trên mặt đất. Rồi như một phép màu kỳ diệu, chỉ cần trời ngớt hạt, từng đóa hoa lại từ tốn vươn thẳng tắp, rung rinh. Nhà không ai ngoài ông lúc này, vậy nhưng ông thực sự cảm thấy tất cả mọi điều dù gần gũi hay vời vợi rồi cũng đang cùng mình đi qua cơn mưa.

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Phố mưa