Tiếng vọng của núi sông

Truyện ngắn của Lê Quang Trạng| 25/04/2023 06:10

(HNMCT) - Nhiều năm sau khi đã rời xa cuộc chiến, tôi vẫn thường nghe âm thanh ngày nào vọng đến. Đó là tiếng côn trùng gặm lá trong đêm, tiếng mưa rả rích ngoài hiên trại hay tiếng sáo thổi bài hành khúc của Tâm - đứa em nuôi, cũng là người đồng đội. Nhưng lạ thay, bao giờ trong mơ tôi cũng thấy em còn sống, vẫn trẻ, xanh tươi như ngày em đến đơn vị.

Minh họa: Lê Trí Dũng

Cơ duyên đưa chúng tôi gặp nhau đến trong một chiều mưa dầm tháng sáu. Đơn vị vừa hành quân đường dài và dừng chân nghỉ ở một ngôi làng hoang tàn vì bom đạn. Vài thanh niên trở về thám thính tình hình. Bằng mớ tiếng Việt pha Khmer lơ lớ, họ kể nơi này vừa xảy ra giao tranh và quân Khmer đỏ đã nã những loạt pháo vào làng, kể cả vào ngôi chùa nơi đang có nhiều người dân trú ngụ...

Đêm xuống, mưa lắc rắc làm cây lá lao xao. Tôi đã chìm vào giấc ngủ nhưng vẫn nghe như có tiếng rên rỉ vọng lại. Tiếng rên ngày một rõ hơn, lúc dày lúc thưa làm cả đơn vị hoang mang. Ai cũng nghe thấy thì chắc chắn rằng đó không phải ma nhát mà là tiếng người. Càng đi về phía ngôi chùa tiếng rên càng rõ hơn. Khi đến gần ngôi tháp cổ cách chùa vài trăm mét thì đã biết chắc tiếng rên phát ra từ trong tháp. Những khẩu súng được cầm chắc trong tay.

Chúng tôi lần vào trong tháp thì phát hiện một đứa trẻ khoảng mười lăm mười sáu tuổi, tóc bết, mặt mày xanh xao, tay nó đang nắm chặt đầu gối, rọi đèn vào mới thấy lúc nhúc những con dòi trắng rợn người. Đứa trẻ hốt hoảng gọi: “Mẹ ơi, mẹ ơi”. Tôi cố gắng trấn an nó. Dù đã dần bớt đi sự lo sợ, nhưng rất lâu sau nó mới chỉ nói được rằng đã trốn ở đây ba ngày, chỉ ăn lá cây mà sống.

Chúng tôi thay nhau cõng đứa trẻ về trạm quân y cách đó vài cây số. Hơn tuần sau vết thương đã lành và đứa trẻ cũng tỉnh táo hơn. Nó kể rằng nó tên Chau Tâm, cha Khmer, mẹ người Việt. Cha mẹ nó trú trong chùa nên bị pháo dập. Nó bị thương, may mắn sống sót và đã đem xác cha mẹ ra chôn phía sau chùa rồi trốn trong ngôi tháp. Tôi cảm thấy vừa đau xót vừa thương cảm làm sao. Tôi hỏi:

- Người ta đã trở về làng nhiều rồi. Lành bệnh em trở về làng được rồi đó.

Mắt Tâm bỗng rưng rưng rồi nó cầm tay tôi:

- Cha mẹ, cô bác em chết hết rồi, em sợ lắm. Anh cho em theo các anh, cho em theo các anh nha.

Tôi nói: “Sợ bom đạn thì nên ở lại đây. Đi theo anh bom đạn còn dữ hơn”. Tâm không nói gì thêm, ngồi đờ ra, dường như bao nhiêu lời lẽ đã nghẹt cứng lại nơi cổ họng.

Mấy hôm sau thì Tâm trở về làng. Sáng nó về thì buổi trưa một vị sư dắt Tâm đến gặp chúng tôi. Nhà sư đứng chắp tay trang nghiêm. Tâm bỗng quỳ xuống, nói xin chúng tôi nhận nó vào đơn vị để nó có được miếng cơm và khôn lớn. Tôi đỡ Tâm đứng dậy, lòng nặng trĩu.

Sau khi nghe tôi trình bày, chỉ huy đơn vị suy nghĩ hồi lâu rồi nói, thôi cứ nhận nó vào, dù sao Tâm biết nói cả hai thứ tiếng cũng đỡ đần cho đơn vị. Tôi nhận nó làm em nuôi. Làm hồ sơ lý lịch cho Tâm được mấy hôm thì đơn vị chuyển quân. Lúc ra đi Tâm cứ nhìn mãi lại phía sau, nơi ngôi làng với những cây cổ thụ bị pháo chém cụt đầu, những ngôi tháp cổ bị đạn bắn nham nhở và ngôi chùa linh thiêng chỉ còn là đống gạch đá nằm im lìm như đang ôm bao nỗi niềm hóa khói.

***

Tâm theo đơn vị được gần một năm, bắt đầu trổ mã cao lớn và dạn dĩ. Nó gan góc, không ngại gian khổ cũng không sợ đau đớn. Có lần Tâm gặp con rắn dài gần hai thước, bị rắn ngoạm vào tay Tâm vẫn cố cầm con rắn đập đầu nó vào đá đến chết rồi mang về đơn vị. May mà anh em đưa Tâm đến nhà ông thầy lang gần đó điều trị cả tuần mới cứu được.

Mấy hôm ở nhà ông thầy, Tâm nằm như chết, rên rỉ gọi tên tôi. Cha con ông thầy tận tình chăm sóc đến lúc Tâm khỏe hẳn. Nó vẫn thường nói, đời nó mang ơn đơn vị và ông thầy lang không biết bao giờ mới trả hết được. Tâm còn có cảm tình đặc biệt với đứa con gái của ông thầy. Tôi biết chuyện, nửa mừng nửa lo. Tối, nằm ngủ cạnh Tâm, tôi nói, “chinh chiến đang hồi đổ lửa, anh Hai cũng lo cho mầy, ráng đến khi yên bình rồi anh sẽ cưới vợ cho mầy, sẽ làm đám đàng hoàng tử tế”. Tâm im im nhưng qua đôi mắt sáng rực, tôi tin lòng nó đang vui như lượm được vàng.

Sau đó không lâu đơn vị lại di chuyển. Lần này chúng tôi đóng quân gần một mé rừng, địa hình tương phối phức tạp. Tâm nói với tôi rằng nó thấy lo lo, nhưng nó không có chút sợ hãi nào, và nó tin rằng ngày chiến thắng sẽ không còn xa.

Ít ngày sau, Tâm cùng hai chiến sĩ đi công tác trở về qua suối thì bị địch phục kích. Chỉ mình Tâm may mắn thoát chết. Nó cõng từng người ra mé rừng rồi chạy về báo tin. Chạng vạng tối, chúng tôi làm thủ tục mai táng anh em ở tại mé rừng. Tâm vừa khóc vừa đào huyệt, tôi cảm tưởng nó không biết mệt, dù những giọt nước mắt vẫn không thôi rơi trên lòng đất lạnh.

Sau lần đó Tâm có những biểu hiện khác lạ. Nó ít nói hơn và dường như đang giấu tôi nỗi niềm gì đó. Đôi mắt nó đăm chiêu như giấu kín điều gì đó bí mật lạ thường. Tôi càng để ý nhiều hơn thì nó lại càng né tránh tôi. Một lần nửa đêm, khi đơn vị đã ngủ, tôi thấy Tâm và Hùng, cũng cùng trang lứa với nó, ra khỏi lán. Lần đi theo, tôi nghe được cuộc trò chuyện, thì ra hai đứa rủ nhau trốn về xuôi, về nhà ông thầy lang. Lòng tôi như lửa đốt, giận mà phải kìm chế để tìm cách giải quyết. Nhưng chưa kịp thì gần sáng đơn vị bị địch tập kích.

Trận đụng độ tương đối bất ngờ, hai bên đều có thương vong. Hùng bị thương nặng, không lâu sau thì tắt thở trong tay Tâm. Ba đồng chí khác cũng hy sinh. Đơn vị được lệnh tiến lên truy quét địch. Tâm xin tôi cho ở lại cùng bộ phận chính sách để chôn cất Hùng. Tôi đồng ý, lòng có chút lo âu. Tâm hứa xong việc sẽ tìm về đơn vị ngay.

Nhưng ròng rã suốt mấy tháng sau vẫn không có tin tức gì về Tâm. Anh em chính sách nói, hôm đó chôn cất vừa xong thì lại bị một đám Khmer đỏ phục kích nên phải rút nhanh. Trong đêm đen và bị địch đánh úp, không ai biết Tâm lạc hay trốn nơi nào, trong khi nó chỉ có duy nhất cái len(*) của đơn vị. Tâm đã biến mất một cách lạ kỳ!

Tôi giận Tâm vô cùng, tại sao nó lại đào ngũ lúc này? Tôi quyết tâm trước ngày về nước sẽ tìm đến ông thầy lang. Nhà ông vừa mới gả đứa con gái đi lấy chồng, mãi tận U Minh miệt thứ xa xôi lắm. Ông quả quyết rằng sau lần khỏi bệnh trở về đơn vị Tâm chưa hề đến đây. Mặc dù trước ngày cưới con ông có nhờ người nhắn Tâm về chơi nhưng nó vẫn bặt tăm. Và mọi tin tức về Tâm kể từ đó cũng không còn, như một sợi dây bị cắt đi một cách phũ phàng.

***

Bốn mươi năm sau, tôi và anh em làm công tác chính sách năm nào cùng trở về chiến trường xưa để tìm và đưa anh em mình về đất mẹ. Mé rừng xưa không còn bất cứ manh mối nào. Con đường lớn được mở ngang qua và nhà cửa đông đúc. Lần mò mấy hôm cũng ra thông tin rằng, khi làm đường lộ người ta có đụng trúng một bộ hài cốt. Lần theo hướng người dân chỉ, may mắn đào trúng ngôi mộ chôn cùng một lọ thuốc đựng tờ giấy ghi thông tin của Hùng. Đoán chắc là hài cốt của Hùng, nhờ vậy mà theo sơ đồ mới xác định được các anh em còn lại. Nhưng không hiểu ai đã để vào túi áo Hùng lọ thuốc đựng tờ giấy trong cái đêm tối mịt mù đó?

Đem bốn bộ hài cốt về trại thì trời đổ mưa. Lòng tôi chợt dậy lên cảm xúc năm nào. Trong mớ cảm xúc đó, nỗi nhớ Tâm thường trực ám ảnh. Đêm càng về khuya, gió càng xào xạc, tôi thiêm thiếp đi vào giấc ngủ. Trong sự chập chờn, Tâm từ đâu bước đến, đến một cách lạ kỳ cũng như cách nó biến mất lạ kỳ không thể nào giải thích được. Tâm đứng trước võng của tôi, hai tay khoanh trước ngực, áo quần bê bết đất:

- Dạ, em thưa anh Hai mới lên! Anh Hai lên đây mấy hôm mà nay em mới dám đến thăm.

Không hiểu sao tôi lại không quát nạt Tâm như tôi từng nghĩ sẽ quát nó một trận khi gặp lại. Tôi hỏi:

- Mầy đi đâu mà anh Hai tìm suốt mấy chục năm trời không gặp?

- Dạ, em vẫn ở đây chờ anh Hai.

Im lặng hồi lâu, Tâm nói tiếp:

- Anh Hai lên đưa anh em về, sao anh không đưa em về?

Tôi ngồi bật dậy, hỏi:

- Mầy ở đây là ở đâu, sao anh Hai tìm không gặp?

Tâm nói:

- Dạ, em ở vườn cam!

Vía tôi bỗng nỗi giận:

- Mầy xạo, ở đây làm gì có vườn cam.

Tâm nghe xong thì cúi mặt rồi từ từ tan biến vào màu xanh của núi rừng. Lúc đó tôi mới biết rằng mình vừa qua một cơn mơ. Giật mình ngồi dậy thì trời đã sáng.

Tôi lâng lâng ý nghĩ về Tâm và mang một nỗi hy vọng lạ kỳ. Tôi hỏi bà con ở xóm rằng quanh đây có vườn cam nào không? Người ta nói, cách đây hơn một cây số, năm xưa có một vườn cam. Tôi đến nơi, bây giờ không còn vườn cam mà là một ngôi nhà khang trang với hàng rào khép kín. Chủ nhà là một ông lão ngoài bảy mươi. Nghe tôi kể chuyện giấc mơ, ông trầm ngâm hồi lâu rồi nói rằng ông biết có một người lính hy sinh ở vườn cam. Khi ông đến đây lập nghiệp, lúc ấy sau chiến tranh ba bốn năm thì cái xác đã khô mà trên tay vẫn cầm cái len, lá cam phủ đầy trên người như ngôi mộ lá. Ông đem cái xác chôn ở ngay chỗ mộ lá phủ lên...

Mở những lớp đất lên, Tâm ở đây chứ ai. Chiếc len có khắc tên đơn vị và Tâm trong bộ đồ năm nào, chiếc áo Tâm vẫn hay mặc, tay áo xắn cao. Và ở túi ngực có một lọ thuốc đóng kín nắp, bên trong là một tờ giấy ghi họ tên và đơn vị. Hộp thuốc và chữ viết y hệt chiếc hộp ở mộ Hùng, thật quái lạ? Và gần nơi bờ ngực trái có một đầu đạn xuyên qua... Tôi ngước mặt về phía núi, nơi đơn vị năm xưa tiến lên, thảng thốt gọi: “Tâm ơi!”. Dường như có tiếng Tâm đáp: “Tâm... ơi, ơi...”, như nó vẫn ở lại nơi đây, đáp lời núi sông đồng vọng.

Mãi sau này, nhiều đêm nhớ Tâm tôi vẫn nghe tiếng em vọng lại. Điều đó đã thôi thúc tôi tiếp tục lên đường. Với cuốc xẻng, tôi về lại chiến trường xưa, về nơi mình và động đội đã gieo tuổi thanh xuân để xanh lên muôn màu non xanh, mây thong thả trắng!n

(*) Len: Cái xẻng - từ dùng ở miền Tây Nam Bộ.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Tiếng vọng của núi sông