Xưa và nay

Tết của người Việt xưa

Nguyễn Ngọc Tiến 01/02/2025 06:15

Trong quan niệm dân gian, Tết Nguyên đán bắt đầu từ 23 tháng Chạp - “Tết ông Công ông Táo” và kết thúc vào mùng 7 tháng Giêng - ngày hạ cây nêu, nhưng trọng tâm chỉ dồn vào ba ngày đầu năm mới, từ mùng một đến mùng ba.

Xã hội ngày càng thay đổi, dẫu vậy nhiều nghi lễ và phong tục vẫn được duy trì đến ngày nay, song cũng có những nghi lễ, phong tục chỉ còn lại trong sách hay trong các bài thơ xưa.

tet-viet.jpg
Tết Việt. Ảnh: Tuyết Minh

Tết ở chốn cung đình

Vua có cha mẹ, tổ tông, vì thế ngày Tết cũng phải tuân theo phong tục cúng lễ, mời tổ tiên về ăn Tết. Nhưng vua còn là người đứng đầu đất nước nên thay mặt muôn dân thực hiện các nghi lễ mang tính quốc gia. Khi Thăng Long còn là kinh thành, chiều ngày 30, ngày cuối cùng của năm cũ, vua cho dựng cây nêu trong Hoàng thành để dân chúng sau đó dựng theo. Cây nêu mang tính tín ngưỡng, để đón giọt nắng đầu tiên nhưng cũng là để xua đuổi các thế lực hắc ám. Vào giờ Dần (từ 3h - 5h) sáng mùng một, lúc bốn góc thành bắn loạt đại bác, vua sẽ tắm nước lạnh sau đó thay Hoàng bào mới ra thiết triều. Các quan đại thần, hoàng tử đã chực sẵn chúc vua vạn thọ. Vua nhận lễ xong thì lui vào cung để nhận lễ từ hoàng hậu, các phi tần và thị nữ.

Ngày Tết trong các triều đình phong kiến vốn có rất nhiều nghi lễ, nhưng có hai nghi lễ quan trọng. Nghi lễ thứ nhất là vua xuất hành du xuân. Sau khi nhận lễ của hoàng hậu và các phi tần, thị nữ, vua sẽ vào thư phòng viết hai chữ “nghi xuân” (hợp với mùa xuân) dán lên cửa chỗ vua ở để cầu phúc, đón xuân đồng thời cũng là bùa, trong lúc ấy, ở cổng thành quan quân đã chuẩn bị sẵn kiệu cho ngài du xuân. Người xưa nói: “Vạn vật khởi ư xuân” (vạn vật bắt đầu từ mùa xuân). Trong “Kinh Lễ” của Khổng Tử có câu: “Nghinh xuân ư Đông giao” nên vua sẽ du xuân ở hướng Đông bên ngoài thành. Theo thuyết Ngũ hành, phương Đông thuộc mộc lại chủ về mùa xuân, do vậy vua ra ngoại thành nơi có cỏ cây hoa lá để đón khí xuân là thuận tự nhiên. Kiệu vua rất nhiều người khiêng. Theo sau kiệu là các quan trong phẩm phục mới cưỡi voi đóng bành. Lại có các quan cưỡi ngựa. Đội vệ binh bảo vệ hai bên và phía sau đều giương cờ bằng lụa hay nhiễu, tay cầm binh khí nạm vàng hoặc bạc. Khi vua xuất hành mà trời mưa thì dân chúng đứng hai bên đường sẽ hoan hô đấng quân thượng vì đó là điềm lành báo hiệu năm đó lũ không lớn và mùa màng bội thu. Nếu hoàng bào của đức vua bị mưa ướt, ngài sẽ vui mừng bởi đó là dấu hiệu long ỷ vững vàng, ngài sẽ tại vị lâu dài. Vua xuất hành ra ngoại ô sau đó quay về hoàng cung để quan, lính và dân về chung vui cùng gia đình. Vua trở về cung, theo phong tục Đại Việt, mâm cơm của ngài có ngũ tân (gồm năm vị cay là hành, tỏi, hẹ, rau răm, rau cải) để trừ lạnh cũng là đón mừng năm mới vì chữ “tân” nghĩa là cay đồng âm với chữ “tân” có nghĩa mới.

Nghi lễ thứ hai là sáng mùng ba Tết, ngày cuối cùng của ba ngày Tết, tại một cánh đồng rộng bên ngoài thành, quần thần đã chuẩn bị sẵn súc vật tế thần sau đó sẽ làm cỗ. Họ cũng được lệnh thiết lập sẵn những hương án thờ các tướng lĩnh và binh lính tử trận vì nước mang lại bình yên cho xã tắc. Song không chỉ có hương án thờ tướng lĩnh của triều đình, tư tưởng hòa hiếu của người Việt còn thể hiện ở việc có cả hương án thờ các tướng giặc đã xâm lược, thống trị Đại Việt và bị chết trận như sự ân xá tội lỗi của họ. Sau khi vua lễ bốn phương cúng vong linh, ngài sẽ đốt hương, trầm dâng cúng khấn các bậc anh hùng đã quá cố che chở cho nước nhà bình yên trong tiếng kèn tiếng đàn trầm buồn. Nghi lễ này còn có ý nghĩa khác, đó là làm cho những kẻ có lòng bội phản, còn sống hoặc đã chết, tiệt ý định bén mảng đến biên thùy. Vua làm lễ xong binh lính sẽ bắn loạt thần công. Thời Lê, cho rằng nhà Mạc là ngụy triều nên vua cầm cung bắn năm mũi tên vào hình tượng các nghịch vương nhà Mạc. Lúc này quân lính được lệnh tản ra ăn uống, vua nhìn quan quân uống chung chén rượu trong tâm trạng hân hoan.

Uống rượu ngày Tết

Tết xưa, người ta cúng tổ tiên bằng rượu truyền thống nhưng lại uống rượu ngâm thảo mộc. Có ba loại gồm rượu Bách, Đổ tô và Mâm tiêu. Từ trước Tết người ta đẽo thân cây bách thành những miếng nhỏ ngâm với rượu. Bách là loại cây chịu rét, lá tươi lâu, do vậy người dân tin rằng uống rượu Bách sẽ chống được lạnh giá mùa đông và sống lâu như cây này. Thứ hai là rượu Mâm tiêu. Cây liêu tiêu còn gọi là cây thù du (hay thù nhục, táo bì), trong Đông y liêu tiêu có thể trừ được tà khí, ngăn được thương hàn, lỵ và giúp hạ huyết áp, lợi tiểu. Người xưa ngâm hoa và quả liêu tiêu khô với rượu. Trong bữa cơm sáng mùng một Tết mừng năm mới, con cháu trong nhà đặt hũ rượu vào mâm dâng kính lên ông bà, cha mẹ và các bậc huynh trưởng để chúc thọ. Vì đặt trong mâm nên gọi là rượu Mâm tiêu. Loại thứ ba là rượu Đổ tô. “Đổ tô” nghĩa là lều cỏ. Tương truyền xưa có một người sống trong lều cỏ. Vào ngày cuối năm anh ta đem ngâm túi thuốc có nhiều vị xuống giếng thơi và sáng mùng một múc nước giếng pha với rượu mời mọi người trong làng cùng uống. Bắt nguồn từ tích này đã hình thành tục sáng mùng một Tết người ta lấy rượu ngâm với nhiều vị thuốc mời nhau với ý nghĩa trừ dịch bệnh và chúc năm mới khỏe mạnh, không đau ốm.

Trong bài thơ “Nguyên nhật” ("Mùng một Tết"), Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) đã nói đến ba loại rượu này:

“Tự tòng nhất khi chuyển hồng quân
Thặng hi niên lai tiết hậu tân
Bách tửu khư hàn nghênh lệnh đán
Tiêu bàn hiến tụng lạc phương thần
Tiêu hồi tinh Đẩu thời hành Hạ
Án tích đồ thư nhật hữu xuân
Chước liễu Đổ tô vô tá sự
Túc tương ngũ phúc chúc linh xuân”

(Nghĩa là: “Từ khi khí trời đã xoay vần theo tạo hóa/ Lại mừng năm mới tiết trời đổi mới/ Uống rượu ngâm cây Bách đầu năm trừ tà khí đón ngày đầu xuân/ Dâng tụng rượu hoa Tiêu chúc thọ vui buổi lương thần/ Chuôi sao Bắc Đẩu xuôi dần, thời tiết theo lịch nhà Hạ/ Bàn xếp sách vở vui tháng này vui cảnh xuân/ Rót rượu Đổ tô chúc nhau xong không có việc gì nữa/ Chỉ có việc là đem ngũ phúc chúc thọ phụ thân”).

Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) là công thần triều Nguyễn, ngày Tết nhưng vua Minh Mạng cử ông phải đi công cán ở Cao Miên, nhớ Tết quê nhà nên cảm khái viết bài “Nguyên đán khách Cao Miên quốc” (“Tết nhưng phải làm khách ở Cao Miên”). Trong bài thơ có câu “Khách địa tùy thương Bách tửu yêu” (“Đất khách ai người đem mời rượu Bách”). Tức là tục uống rượu Bách vẫn duy trì đến thời Nguyễn.

Tết nay khác nhiều với Tết xưa, lễ nghi, phong tục, kiêng kỵ đơn giản hơn nhưng vẫn giữ hồn Tết. Trước Tết nhà nào cũng ra mộ mời người đã khuất về ăn Tết, đó chính là tín ngưỡng âm dương đoàn viên chỉ có ở trong Tết Nguyên đán của người Việt.

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Tết của người Việt xưa